GIÁO SƯ ĐẠI HỌC HARVARD THAM QUAN VÀ TRAO TẶNG KỶ VẬT CHO KHU DI TÍCH NGUYỄN DU


         Được biết Đoàn công tác của Đại học Harvard (Mỹ) được mời đến Hà Nội để gặp gỡ với Ban chỉ đạo 515, Bộ quốc phòng, Bộ Lao động Thương Binh Xã Hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các ban ngành liên quan để thúc đẩy sự hợp tác đào tạo, trong đó có Dự án “Di sản chiến tranh Việt Nam chưa được khám phá”nhằm giúp chính phủ và nhân dân Việt Nam xác định danh tính và tìm hài cốt liệt sĩ dựa vào các nguồn tư liệu lịch sử của Mỹ, trong đó co hàng triệu tài liệu của lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam  phía Mỹ thu giữ trên chiến trường, có nhiều tư liệu viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều. Dự án “Di sản chiến tranh Việt Nam chưa được khám phá” được tiến hành trên cơ sở bản ghi nhớ của hai chính phủ Việt Nam và Mỹ thực hiện “Sáng kiến tìm kiếm người Việt Nam mất tích trong chiến tranh” được ký kết tháng 7/2021.         

Nhân dịp này Quỹ Bảo tồn phát huy giá trị di sản Nguyễn Du và Truyện Kiều mời đoàn về thăm Khu di tích Nguyễn Du và trao tặng kỷ vật về Truyện Kiều của bộ đội ta mà phía Mỹ thu được. 

Chiều ngày 9/4/2-23, đoàn Đại học Harvard do Tiến sĩ Anthony James Saich - Giáo sư quan hệ quốc tế, Giám đốc Quỹ Nghiên cứu châu Á thuộc Trung tâm Quản lý nhà nước, Trường Quản lý nhà nước và chính sách công Kennedy (HKS), Đại học Harvard, Chủ nhiệm Dự án “Di sản chiến tranh Việt Nam chưa được khám phá” dẫn đầu đã đến tham quan và trao kỷ vật cho Khu di tích Nguyễn Du. Đi cùng đoàn có Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hải, Giám đốc Chương trình nghiên cứu chiến tranh Việt Nam và Thế giới và  Dự án Di sản chiến tranh Việt Nam chưa dươc khám phá Đại học Harvard; Tiến sĩ Phạm Hồng Hà (Viên sử học Việt Nam) và ông Trịnh Giang; Ông Ngô Đình Quỳnh, Quản lý Dự án Di Sản Chiến Tranh Viêt Nam Chưa Được Khám Phá.

Đoàn đã tham quan khu di tích, bảo tàng - nơi trưng bày gần 1.000 tài liệu, hiện vật liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Đại thi hào như: nghiên bút của Nguyễn Du, bản Kiều in từ bản khắc năm 1866, cuốn Truyện Kiều viết theo lối thư pháp (độc bản), thư pháp Truyện Kiều dài nhất Việt Nam (độc bản), bộ sưu tập Truyện Kiều xuất bản bằng các thứ tiếng, sưu tập sách viết về Nguyễn Du...


Sau khi tham quan, đoàn công tác Đại học Harvard đã trao bản sao cuốn nhật ký của một chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam do Trung tâm Khai thác tài liệu tổng hợp về chiến tranh Việt Nam (CDEC) thu thập cho BQL Khu di tích Nguyễn Du để lưu giữ, trưng bày.


Qua trao đổi, Tiến sỹ Anthony James Saich bày tỏ ấn tượng với Khu di tích và Đại thi hào Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều. Cuốn sổ tay của chiến sỹ Việt Nam có bút tích về truyện Kiều - Nguyễn Du là sự khởi đầu cho sự hợp tác lâu dài giữa hai bên trong việc sưu tầm những kỷ vật có liên quan đến Truyện Kiều của các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam mà phía mỹ thu được./.

TIẾNG VIỆT TRONG TRUYỆN KIỀU VÀ NHỮNG PHÁI SINH

    


                                                                 TS. NGUYỄN LÊ HOÀI ANH


      1.NGÔN NGỮ TRUYỆN KIỀU ĐÃ ĐƯỢC DÂN GIAN HÓA


    Trở thành đỉnh cao văn học Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du có tính phổ cập rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Phạm vi ứng dụng của Truyện Kiều vào đời sống khá phổ biến, phong phú và đa dạng. Có thể khó thống kê chính xác số người thuộc Truyện Kiều, nhưng không khó để khẳng định bất cứ xóm thôn Việt Nam nào cũng biết Truyện Kiều; bất kỳ thế hệ người Việt nào cũng từng đọc, từng nghe, từng thuộc ít thì dăm ba câu, dài thì cả cuốn Truyện Kiều dài 3254 câu lục bát, kể cả đọc ngược từ câu cuối cùng số 3253-3254 “Chuyện quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh” đến câu mở đầu “Rằng năm Gia Tĩnh Triều Minh…”. Vì thế không lạ có những cụ già không hề biết chữ, nhưng vẫn thuộc làu làu cả cuốn sách. Người dân Việt Nam không chỉ yêu mà còn biết vận dụng sáng tạo Truyện Kiều trong đời sống hàng ngày, đưa đẩy, ví von, mượn ý tứ, mượn câu chữ, so sánh với các nhân vật trong tác phẩm để làm tăng giá trị biểu cảm của ngôn ngữ sử dụng. Bắt đầu từ cuối năm 2019, đến tháng 6/2020, Hội Kiều học Việt Nam đã tổ chức bốn cuộc thi “Bạn đọc thuộc Kiều” trên phạm vi toàn quốc. Cuộc thi thành công là minh chứng sống động cho Truyện Kiều đã đi vào tâm thức dân tộc, cuộc sống đời thường của đông đảo người Việt các thế hệ.

Trước hết, nhìn ở góc độ thể loại, Nguyễn Du đã khéo léo chọn thể lục bát -thể thơ dân tộc có vần (vần 6, vần 8), ngữ điệu, dễ thuộc, dễ nhớ cấu thành kiệt tác gồm 3254 câu lục bát.

    Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm, tiếp nhận yếu tố Hán Việt, sử dụng điển tích, điển cố, song Nguyễn Du luôn có xu hướng đưa Truyện Kiều về gần hơn với đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân bằng ngôn từ thuần Việt trong sáng, dễ hiểu. Khi so sánh với những tác phẩm có giá trị thời Lê mạt, như Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Phan Trần truyện, Hoa Tiên ký... viết bằng quốc âm, cụ Đào Duy Anh cho rằng những tác phẩm ấy tuy viết bằng quốc âm, nhưng “lời văn điêu trác, hay dùng điển cố, cho nên chỉ được các hạng thượng lưu trí thức thưởng lãm, mà không phổ cập trong dân gian. Duy Truyện Kiều văn chương đủ tính nghiêm trang, đường hoàng, điêu luyện, khiến cho kẻ học thức phải khâm phục và yêu mến, mà lại đủ cả tính giản dị, phổ thông để khiến cho bình dân hiểu được mà thưởng thức”(1). Trong khi các tác phẩm quốc âm mà cụ Đào Duy Anh kể trên chỉ sử dụng khoảng 40%, thì Truyện Kiều của Nguyễn Du sử dụng trên 70% từ thuần Việt. Trong 3.254 câu lục bát, các từ gốc Hán (dạ đủi, tình quân, bồ liễu, xuân huyên, tấc vàng, trướng đào, tri âm, nhãn tiền, quan tái, quan san…) được dùng có liều lượng. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ có duy nhất một cặp lục bát sử dụng đậm từ Hán Việt: “Hồ Công quyết kế thừa cơ/ Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công”. Gần 30% từ gốc Hán được sử dụng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du lựa chọn những từ đã được Việt hóa và tiếp tục sáng tạo nên ngôn ngữ bình dân như lời ăn tiếng nói vẫn dùng trong giao tiếp hàng ngày. Các từ: xuân, hoa, hồn, tâm, tài, mệnh, đàn bà... đã đi vào đời sống tự nhiên nên dễ được tiếp nhận. Theo khảo sát, các từ được sử dụng tần suất lớn trong Truyện Kiều: từ “hoa” 132 lần, từ “thân” 63 lần, từ “xuân” 59 lần, từ “hồn” 15 lần, từ “ngựa” 14 lần, chữ “chút” (uyển ngữ) dùng 47 lần; 119 lần từ ngữ chỉ màu sắc…

Kiệt tác Truyện Kiều đã đi vào đời sống sâu sắc, bền bỉ. Làm nên thành công này trước hết phải kể đến sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc sử dụng nghệ thuật ngôn từ. Nhà thơ sử dụng nhiều chất liệu của ca dao, tục ngữ nhưng cũng từ Truyện Kiều, nhân dân ta có thêm nhiều thành ngữ mới trong đời sống hàng ngày. Điều kỳ diệu là Nguyễn Du đã sáng tạo ngôn từ mới chưa từng có trong thực tế, cũng không có trong từ điển. Nhà thơ phá vỡ cách tạo từ thông thường để tạo từ mới gây hiệu quả lạ hoá và phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo thành những kết hợp riêng (gió trúc mưa mai, gió giục mây vần, gió gác trăng sân, gió thảm mưa sầu, hoa thải hương thừa, hồn rụng phách rời, lấy gió cành chim, tô lục chuốt hồng, tiếc lục tham hồng, liễu ép hoa nài, liễu chán hoa chê, ngày gió đêm trăng, nắng giữ mưa gìn, ăn gió nằm mưa, bướm chán ong chường, bướm lả ong lơi, cười phấn cợt son, dày gió dạn sương, gìn vàng giữ ngọc…). Nói như GS. Trần Đình Sử đó là những ngôn từ ý tượng (là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng, không phải là hình ảnh sao chép thực tại) có cấu tạo riêng, nói lên sự cảm thụ chủ quan của tác giả. Từ khi Truyện Kiều ra đời, nhân dân ta đã vận Kiều từ ngôn ngữ, nhân vật, tả cảnh…trong Truyện Kiều để sáng tạo nên những sáng tác dân gian.

Truyện Kiều có ảnh hưởng sâu rộng ở Việt Nam, trở thành một thứ “kinh truyện”, là cuốn sách để học hỏi lẽ đời, đồng thời cũng được coi là sách bói, thành đối tượng để tập Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, ngâm Kiều, kể chuyện Kiều...”. Nhiều cuộc thi tập Kiều với những hình thức khác nhau được tổ chức từ sau Truyện Kiều ra đời, kéo dài đến bây giờ.

Vịnh Kiều

    Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều đã được vua quan (Vua Minh Mạng, Tự Đức), giới trí thức, Nho sĩ (Vũ Trinh, Nguyễn Lượng, Phong Tuyết chủ nhân, Thập Thanh thị, Mộng Liên Đường chủ nhân, Nguyễn Văn Thắng, Đào Nguyên Phổ, Kiều Oánh Mậu, Chu Mạnh Trinh,…) quan tâm ngâm vịnh. Đề từ Đoạn trường tân thanh in đầu bản Kiều Nôm do Phạm Quý Thích viết cho khắc ván là bài thơ luật Vịnh Kiều đầu tiên. Sau đó, Truyện Kiều đã trở thành đề tài ngâm vịnh trong môn sinh của Phạm Quý Thích, lan rộng đến các tầng lớp Nho sĩ và trở thành chủ đề cho một phong trào bình luận sôi nổi, ngâm vịnh rộng rãi cho đến nay. Quan niệm chung Vịnh Kiều là lấy Truyện Kiều, hoặc các nhân vật trong Truyện Kiều làm đề tài để qua đó giãi bày tâm sự hoặc nêu lên quan điểm của mình khi nhận định một vấn đề nào đó. Trải qua thời gian từ thời điểm Truyện Kiều ra đời đến nay, thơ Vịnh Kiều được đông đảo công chúng yêu thích, truyền tụng như một “trò chơi văn chương” và các tác giả nổi tiếng các thế hệ, như: Phạm Quý Thích, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Tố Hữu, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Huy Cận... có thơ về đề tài Truyện Kiều được bạn đọc mến mộ. Với Thơ vịnh Kiều (1973), Nguyễn Văn Y là người đầu tiên ý thức về việc nghiên cứu những ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều đến giới văn nhân hậu Nguyễn Du.

    Bói Kiều

    Theo dân gian, ai có nguyện vọng “bói Kiều” thì phải rất chu đáo, thành tâm từ trang phục chỉnh tề, thắp nén hương thơm, tay cầm Truyện Kiều trang trọng, thành tâm khấn ước: “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều; con tên là…, ngụ tại địa chỉ… xin cho con biết chuyện…của con sẽ như thế nào, xin ứng vào trang (phải/trái, dòng thứ…tính từ dưới lên/ hoặc từ trên xuống)”. Khấn xong, người bói lật trang Kiều để tìm câu ứng nghiệm…

    Nhại Kiều

“Nhại Kiều” là phỏng theo một số câu quen thuộc trong Truyện Kiều để viết ra những câu tương tự, nhưng thường mang nét nghĩa châm biếm, giễu cợt. Từ hai câu Kiều “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần” đã có người “nhại Kiều” thành: “Có tiền mà cậy chi tiền/ Có tiền nhiều quá cũng phiền lắm thay”…

Đố Kiều

Đố Kiều là hình thức thử tài thuộc Truyện Kiều. Khi có câu hỏi đố, người trả lời cần có có đáp án nhanh. Đố Kiều có nhiều dạng: trích dẫn y nguyên một câu Kiều, tổng hợp nhiều câu Kiều…trong đó đố vui kiểu chơi chữ chiếm một tỷ lệ lớn. Đố Kiều đã được sử dụng rất phổ biến trong giao tiếp, ứng xử, trong các loại hình nghệ thuật sân khấu, hát đối... mang lại tiếng cười sảng khoái, thông minh, am tường Truyện Kiều.

Một số ví dụ câu đố Kiều vui


Câu đố

Trả lời

Truyện Kiều anh thuộc đã lòng

Chỗ nào tơ liễu mà không buông mành?

Dưới cầu nước chảy trong veo

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha

Truyện Kiều anh thuộc đã làu

Đố anh kể được một câu năm người?

Này chồng, này mẹ, này cha Này là em ruột, này là em dâu

Đến đây hỏi khách cựu giao

Chàng Kim đau bụng thế nào chàng ơi?

Khi tựa gối, khi cúi đầu

Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày

Năm 2000, Tổng thống mỹ Bill Clinton sang thăm Việt Nam đã chọn câu nào trong Truyện Kiều để lẩy Kiều?

Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân

Nghe đồn anh thuộc Kiều làu

Đố anh kể được một câu hết Kiều?

Lời quê chắp nhặt dông dài

Mua vui cũng được một vài trống canh

Truyện Kiều anh đọc đã nhiều

Đố anh kể được câu Kiều năm “cho”

Làm cho cho mệt cho mê

Làm cho đau đớn ê chề cho coi


Lẩy Kiều

Lẩy Kiều là hình thức lấy bất kỳ câu nào trong 3254 câu trong Truyện Kiều. Người lẩy Kiều vừa phải hiểu tác phẩm và vừa biết lấy câu Kiều nào cho phù hợp với văn cảnh của mình. Độ dài ngắn vận dụng là tùy thuộc vào nội dung người lẩy Kiều muốn diễn đạt.


Tập Kiều

So với tất cả các hình thức trên, “Tập Kiều” là một hình thức sáng tạo độc đáo nhất của nhân dân với lối chơi tao nhã, sang trọng…Điều quan trọng người “Tập Kiều” phải hiểu biết Truyện Kiều thì mới có thể mượn những câu chữ nguyên vẹn trong Truyện Kiều ghép với câu chữ do mình đặt. Chính nhờ có hình thức “Tập Kiều” này, người chơi đã sáng tác hàng ngàn bài thơ về Kiều với nhiều nội dung, chủ đề khác nhau.


2. NHỮNG PHÁI SINH TRUYỆN KIỀU TRONG ĐỜI SỐNG


Nguyễn Du là bậc thầy về việc sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ Truyện Kiều đã được dân gian hóa bằng nhiều hình thức, như: đề Kiều, vịnh Kiều, hát Kiều, đố Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều, tập Kiều…Truyện Kiều mang đậm văn hóa Việt. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường vận Kiều, tập Kiều trong bài viết, nói chuyện, tiếp khách.

Viết bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy ở chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ đã đưa dẫn câu Kiều:

“Dòng sông lặng ngắt như tờ

Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo Bốn bề phong cảnh vắng teo

Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan Lòng riêng riêng những bàn hoàn

Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng Thuyền về trời đã rạng đông

Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi”

Ngày 18/8/1949

Cảm ơn nữ sĩ Hằng Phương tặng cam, Bác Hồ đã chơi chữ “cam” bằng vận dụng thành ngữ “khổ tận cam lai” tạo cậu thơ số 3210 trong Truyện Kiều Tẻ vui bởi tại lòng này/ Hay là khổ tận đến ngày cam lai” thành bài thơ:

Cảm ơn người biếu gói cam

Từ thì không đặng nhận làm sao đây.

 Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai. 

(Thư cảm ơn nữ sĩ Hằng Phương biếu cam; Tết Bính Tuất 1946)

Nhân kỷ niệm 10 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát chặng đường trưởng thành và phát triển của Quân đội bằng cách lẩy Kiều: “Quân ta công trạng lớn lao/ Mười năm lịch sử biết bao nhiêu tình”. Nhân Tết Nguyên đán Canh Tý 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh khéo léo nhắc nhở đồng bào, chiến sĩ cả nước thực hành tiết kiệm “Trăm năm trong cõi người ta/ Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan/ Mừng Xuân, Xuân cả thế gian/ Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân”. Cùng năm đó, tiếp Tổng thống Guinea Sekou Toure, Bác Hồ đã “lẩy Kiều”:

“Đến bây giờ mới thấy đây/ Mà lòng đã chắc những ngày thanh niên”. Câu thơ sáng tạo của Bác được dẫn từ câu số 2.283 trong Truyện Kiều:

Đến bây giờ mới thấy đây

Mà lòng đã chắc những ngày một hai

Chuyến viếng thăm của Chủ tịch K.E.Vôrôsilốp và Đoàn đại biểu Chính phủ Liên xô đã kết thúc. Trước ngày Đoàn lên đường về nước, Bác Hồ tổ chức một buổi liên hoan văn nghệ. Đoàn văn công được mời đến phục vụ biểu diễn. Trước mặt đoàn văn công là Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng và vị khách quý Vôrôsilốp ngồi chờ biểu diễn. Khi đoàn văn công sắp xếp đội hình, Bác đứng lên, quay sang vị khách “tập Kiều” câu số 555 và 556:

Đã nguyền hai chữ đồng tâm Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai

Đây là câu nói về Kim Trọng và Thúy Kiều gặp nhau trao duyên, thề yêu nhau trọn đời. Nhưng lúc đó nghe tin chú mất, Kim Trọng chia tay người yêu về Liêu Dương hộ tang chú và không quên dặn Kiều “Gìn vàng giữ ngọc cho hay/ Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”. Thúy Kiều đáp lại người yêu bằng hai câu thơ trên thể hiện thái độ dứt khoát, tin cậy, chung thủy. Trong diễn văn tiễn Chủ tịch K.E.Vôrôsilốp và Đoàn về nước, kết thúc tốt đẹp chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:

Quan san muôn dặm một nhà Bốn phương vô sản đều là anh em

Người đã mượn từ “quan san” trong hai câu số 1519-1520 “Người lên ngựa kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”. Từ “quan san” là nơi quan ải, núi non, thường được dùng để chỉ sự xa xôi cách trở. Câu thơ trên khẳng định tình đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Các nguyên thủ quốc gia sang thăm Việt Nam thường quan tâm đến thành tố văn hóa Việt, trong đó sự quan tâm nổi bật phải kể đến là dẫn Truyện Kiều của Nguyễn Du với nhiều hình thức: tập Kiều, lẩy Kiều... Có lẽ câu nói của GS John Swensson (giảng viên dạy Truyện Kiều ở Đại học De Anza bang California, cựu binh Mỹ đóng quân ở Củ Chi năm 1966, ở Sài Gòn năm 1968 – 1969): “Muốn tìm hiểu con người Việt Nam thì hãy tìm hiểu Truyện Kiều…” là gợi ý để các nhà lãnh đạo Nhà Trắng quan tâm đến Truyện Kiều?

Tháng 11/2000, nhân chuyến thăm đầu tiên của Tổng thống Mỹ tới Việt Nam sau năm 1975, trong diễn văn đáp từ của Tổng thống Williiam Bill Clinton tại cuộc chiêu đãi trọng thể của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tối 17/11/2000, Tổng thống Bill Clinton đã chọn 2 câu Kiều số 1795 và 1796: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân” (“Just as the lotus wilts, the mums bloom forth/ Time softens grief, and the winter turns to spring). Câu Kiều được chọn đầy ý nghĩa vào thời điểm sau 25 năm chiến tranh và sau 5 năm hai nước bình thường hóa quan hệ. Chuyến thăm của Tổng thống Mỹ đánh dấu một khởi đầu mới cho quan hệ Việt - Mỹ mà cả hai bên cùng có trách nhiệm dựng xây. 13 năm sau, phát biểu của Bill Clinton đã có trong hồ sơ của Việt Nam gửi UNESCO đề nghị vinh danh Nguyễn Du. Chả là Ban soạn thảo hồ sơ đã dẫn câu “lẩy Kiều” của nguyên Tổng thống Mỹ như một minh chứng tiêu biểu cho tầm ảnh hưởng Đông Tây của Truyện Kiều(2). Tháng 7/2015, lần đầu tiên người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam có chuyến thăm Hoa Kỳ. Tại Phòng Bầu dục của Nhà Trắng đã có cuộc gặp gỡ thú vị giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Trong bài phát biểu tiếp lời, thay mặt Tổng thống Barack Obama, Phó Tổng thống Joe Biden đã mượn 2 câu Kiều số 3121, 3122 đáp từ: “Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, khi Kiều đoàn viên với chàng Kim. Ẩn ý sâu xa từ hai câu Kiều “tan sương mù”, “vén mây đen” là nói về những chặng đường thăng trầm trong quan hệ Việt - Mỹ và hướng tới tương lai là những nỗ lực từ hai phía cải thiện, phát triển mối quan hệ hai nước lên một tầm cao mới. Có thể nói chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã giải quyết được nhiều vấn đề tầm vĩ mô, mở ra kỷ nguyên mới của quan hệ Việt-Mỹ. Trong bài phát biểu trước 2000 người Việt Nam tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia ngày 25/5/2016, Tổng thống Barack Obama đã dẫn 2 câu Kiều số 355 và 356 kết thúc bài phát biểu của mình: “Rằng trăm năm cũng từ đây/ Của tin gọi một chút này làm ghi((Henceforth I’m bound to you for life, he said/ Call these small gifts a token of my love). Đây là hai câu Kiều tươi sáng nhất trong ngữ cảnh Truyện Kiều khi Kim Trọng “Xắn tay mở khóa động đào/ Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai” để Kim Kiều gặp nhau. Câu Kiều được Tổng thống Obama dẫn trên đã nói về khát vọng cho tương lai Việt - Mỹ và hành trình hai nước cùng hướng tới…

Các nguyên thủ quốc gia đã thể hiện cái nhìn sâu sắc từng câu thơ Kiều để tìm ra những phương diện, ý nghĩa liên tưởng có thể vận dụng Kiều và họ hiểu hơn ai hết việc đưa văn hóa Việt Nam vào ngoại giao chính trị, văn hóa.

Từ Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhân dân lao động đã ví von, đưa đẩy tạo nên những sáng tác dân gian mới:

-Truyện Kiều anh học đã thông Đố anh kể được một dòng chữ Nho?

- Em như nút, anh như khuy

Như Thúy Kiều với Kim Trọng, biệt li sao đành

– Đồn em hay truyện Thúy Kiều Lại đây mà giảng mấy điều cho minh

Vì đâu Kiều gặp Kim sinh?

Vì đâu Kiều phải bán mình chuộc cha?

Truyện Kiều đã đi vào các hình thức nghệ thuật: ca dao, dân ca, hát trống quân, hát ví, hát sa mạc, hát giặm… Nhân vật trong Truyện Kiều đi vào trong lời ăn tiếng nói của nhân dân: Hò Nam Bộ: “Đường Sài Gòn trơn như mỡ. Cát núi Sập lạnh như gương. Dang tay đưa bạn lên đường. Gá duyên để gió, khác chi Kim Trọng về để lại khúc đoạn trường



cho Kiều nương”; hò Huế “Sen xa hồ sen khô hồ cạn. Lựu xa đào lựu ngã đào nghiêng/ Xa em ngày tháng gieo phiền. Khác nào như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho hết sầu”; hò khoan Quảng Nam: “Kể từ ngày xa cách người thương/ Về nhà đài sen nối sáp đọc mấy chương phong tình/ Đọc tới đoạn Thúy Kiều xa cách Kim sinh/ Thôi Oanh Oanh xa Trương Quân Thụy, nghĩ tội tình biết chừng mô”; hát quan họ Bắc Ninh: “Bây giờ tôi mới gặp tình/ Khác gì Kim Trọng thanh minh gặp Kiều/ Tiện đây tôi hỏi một điều/ Đài gương soi đến dấu bèo cho nhau/ Từ khi ăn một miếng trầu/ Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu tương tư…”…

Có lẽ dựa vào câu: “Chén hà sảnh giọng quỳnh tương/ Giải là hương lộn, bình gương bóng lồng”, nghệ sĩ dân gian đã đưa đẩy, thay đổi, bổ sung một vài chữ cho phù hợp lối “hát mời”: “Chén ngà sánh giọng quỳnh tương/ Mời chàng nho sĩ văn chương bước vào”. Hoặc được gợi ý từ câu Kiều “Xắn tay mở khóa động đào/ Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên thai”, quần chúng nhân dân đã sáng tạo câu ca dao cho hợp với cách hát phường vải: “Ra tay mở khóa động đào/ Thực tiên thì được bước vào chơi tiên”…

Ảnh hưởng từ câu Kiều “Ở đây tai vách mạch dừng/ Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi” trong kháng chiến chống Pháp, có nhiều tấm áp phích được treo ở nhiều nơi có dòng chữ sau:

Ở đây tai vách mạch dừng

Nhắn anh, nhắn chị xin đừng ba hoa…


3 TRUYỆN KIỀU - NGUỒN CẢM HỨNG SÁNG TẠO 


Là một trong những kiệt tác vĩ đại, giàu tính nhân văn, trải qua thời gian, Truyện Kiều vẫn luôn khẳng định một sức sống tiềm tàng tự thân với sức lan tỏa kỳ diệu, là linh hồn của dân tộc như lời khẳng định “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn...”(3); là niềm tự hào bền bỉ của người Việt khi “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Cũng không lạ khi Truyện Kiều đến với thế giới như một bức thông điệp văn hóa, một “tấm vé thông hành” nối kết thế giới mọi thời đại, nhất là thời kỳ hội nhập quốc tế hôm nay. Từ bản dịch Truyện Kiều đầu tiên được Abel des Michel chuyển sang tiếng Pháp cuối thế kỷ XIX (1884-1885), đến nay đã có trên 30 bản dịch Truyện Kiều dịch ra hơn hai mươi thứ tiếng trên thế giới, như: Anh, Pháp, Nga, Đức, Hunggari, Tây Ban Nha, Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc…

Đại thi hào Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho nhiều văn nghệ sĩ với nhiều loại hình nghệ thuật, như âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Truyện Kiều đã hòa trong thế giới âm nhạc tinh tế, giàu bản sắc dân tộc mang hơi thở cuộc sống dân gian và đương đại. Hát ả đào từ lâu đã mượn những câu thơ trong Truyện Kiều để thể hiện nỗi lòng và nhân tình thế thái. Kiều đi vào những ca khúc, được minh họa bằng âm nhạc như: Minh họa Truyện Kiều của nhạc sĩ Phạm Duy (hoà âm, phối khí: Duy Cường; giọng hát: Ái Vân, Thái Hiền, Thái Thảo, Duy Quang, Tuấn Ngọc; giọng ngâm: Thanh Ngoan, Ái Vân). Hợp xướng Truyện Kiều gồm 3 chương (Mối tình đầu, Hồng nhan bạc phận và Tình chị duyên em) của Vũ Đình Ân đã chắp cánh Truyện Kiều bằng âm nhạc. Dựa vào Truyện Kiều, nhạc sĩ An Thuyên viết nhạc kịch 4 hồi dự định trình diễn vào Lễ kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du, nhưng nhạc sĩ rời cõi tạm, chưa kịp hoàn thành tác phẩm đầy tâm huyết và học trò thực hiện tiếp dự án dang dở. Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo thể nghiệm Kiều với opera qua vở Định mệnh bất chợt viết cho một giọng nữ cao (soprano) ngâm thơ, hai giọng nam trung (baryton), một giọng nam trầm (basse) cùng hợp xướng và dàn nhạc giao hưởng thực hiện với độ dài 80 phút. Đây chính là thể nghiệm táo bạo kết hợp nhiều loại hình nghệ thuật, gồm: múa ballet, opera, ngâm thơ truyền thống, kịch thoại, video, rock. Ca khúc Đêm trăng rơi được nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân viết bởi âm hưởng ca trù, hát dặm, hát ví dìu dặt… Trong mỹ thuật, Truyện Kiều đã xuất hiện với mật độ đậm đặc trong dòng tranh dân gian Hàng Trống, Đông Hồ…; trong tranh của những danh họa nổi tiếng trong làng hội họa của các họa sĩ Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Đỗ Cung… Đại thi hào Nguyễn Du và Truyện Kiều đã chạm làng điện ảnh đầu tiên từ năm 1923 với bộ phim Kim Vân Kiều do ông E.A.Famechon (người Pháp) và ông Nguyễn Văn Vĩnh khởi xướng, Công ty phim và chiếu bóng Đông Dương (Indochine Films et Cinémas) thực hiện, công chiếu tại Hà Nội vào năm 1924. Nhân 1000 năm Đại lễ Thăng Long – Hà Nội, phim Long Thành cầm giả ca (kịch bản: Văn Lê, đạo diễn: Đào Bá Sơn) ra đời. Năm 2018, đạo diễn Lưu Trọng Ninh bắt tay làm phim về Kiều với thông điệp “Kiều trong phim của tôi phải mang hơi thở đương đại hôm nay. Thúy Kiều trong phim là kiểu nhân vật thách thức số phận”. Hiện phim điện ảnh Kiều do diễn viên Mai Thu Huyền đạo diễn kiêm Giám đốc sản xuất đã thực hiện bấm máy đầu tiên tại Cao Bằng và sau đó bối cảnh phim sẽ được thực hiện tại 5 tỉnh thành: Thành phố Huế (tỉnh Thừa Thiên – Huế), Quảng Bình, Quảng Trị, Phú Thọ. Dự kiến, sau khi quay xong, vào khâu hậu kỳ và sẽ công chiếu vào quý IV năm 2020, nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du (1820-2020).

Truyện Kiều đến với nghệ thuật sân khấu cải lương, chèo, rối cạn, kịch hình thể, kịch nói, kịch thơ, dân ca bài chòi Khu 5, ca Huế... Vở kịch hình thể Nguyễn Du với Kiều là một thử nghiệm táo bạo của NSND Lan Hương. Vở kịch Kiều (tác giả Nguyễn Hiếu, đạo diễn NSND Anh Tú) được công chúng và hội đồng chuyên môn ghi nhận bởi sự kết hợp khéo léo nhiều yếu tố kịch, ca, hình thể…trong một vở diễn. Vở kịch nói Hoạn Thư ghen (tác giả: Phương Văn, đạo diễn: NSƯT Trần Tường) đã mang đến cho công chúng một làn gió mới đầy sáng tạo, mới mẻ và táo bạo. Trong đó, đáng chú ý là vở rối Thân phận nàng Kiều (tác giả: NSƯT Lê Chức, nhà văn Nguyễn Hiếu; đạo diễn NSND Nguyễn Tiến Dũng) lần đầu tiên được giải mã bằng ngôn ngữ rối cạn (rối và người). Vở diễn đã đoạt nhiều giải thưởng cao tại Liên hoan Quốc tế sân khấu thử nghiệm 2019 như Huy chương Vàng cho Vở diễn xuất sắc, giải Đạo diễn xuất sắc, giải Họa sĩ tạo hình xuất sắc; 2 Huy chương Vàng cho diễn viên xuất sắc và 5 Huy chương Bạc cho các diễn viên tham gia vở diễn…

Truyện Kiều gắn bó lâu bền với đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân. Đã hơn hai thế kỷ trôi qua kể từ khi ra đời, song sức sống của Truyện Kiều vẫn và luôn mãnh liệt, dấu ấn đặc sắc, sức lan tỏa kỳ diệu đầy nội lực từ nội dung cốt truyện đến hình thức thể hiện, trong đó phải kể đến sáng tạo lớn nhất của Nguyễn Du là nghệ thuật ngôn từ. Chỉ đến Truyện Kiều ngôn từ mới nâng lên thành nghệ thuật. Cũng chỉ đến Truyện Kiều, Đại thi hào Nguyễn Du mới được tôn vinh là nghệ sĩ lớn về ngôn từ. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du đến Truyện Kiều đã được UNESCO vinh danh xứng đáng. Đây là sự ghi nhận với những cống hiến của Đại thi hào Nguyễn Du cho nền văn học Việt Nam và sự phát triển của văn hóa nhân loại. Nhà thơ đã đặt nền móng quan trọng trong cách    ứng xử nghệ thuật với ngôn ngữ dân tộc. Nói như học giả Đào Duy Anh, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta.

N.L.H.A


        CHÚ THÍCH:

(1) Đào Duy Anh (1943), Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan Hải Tùng Thư (Huế).

(2) Đăng Trường, Ngoại giao và thơ Kiều, nguồn:http://cand.com.vn/Su-kien-Binh-luan-thoi-su/Ngoai-giao- va-tho-Kieu-357595/

(3) Trích bài diễn thuyết về Truyện Kiều do nhà văn hóa Phạm Quỳnh đọc nhân lễ giỗ lần thứ 104 của Nguyễn Du (ngày 8/12/1924- 10/8 năm Giáp Tý) do Hội Khai trí Tiến Đức tổ chức. Bài được đăng trong Tạp chí Nam Phong số 86.

     TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1943), Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan Hải Tùng Thư (Huế)

2. Vũ Ngọc Khánh (2005) Giai thoại Truyện Kiều, Nxb Văn hoá Thông tin

3. Vũ Ngọc Khánh (2004), Văn hoá Việt Nam, những điều học hỏi, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội

4. Nguyễn Lộc (1965), Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều, Tạp chí Văn học số 11/1965 5.Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối XVIII đến hết XIX, Nxb Giáo dục

6. Phạm Quỳnh (1924), Lễ giỗ lần thứ 104 của Nguyễn Du, Tạp chí Nam Phong số 86

7. Trần Nho Thìn (2008), Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội

8. Đăng Trường, Ngoại giao và thơ Kiều, nguồn:http://cand.com.vn/Su-kien-Binh-lu- an-thoi-su/Ngoai-giao-va-tho-Kieu-357595/



 

THƯ NGỎ

Kính thưa quý vị!      Nguyễn Du (1765-1820) là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông ...