NẶNG NGHĨA - MỘT ỨNG XỬ HIỆU QUẢ CỦA DOANH NHÂN

LTS: Xin giới thiệu tiếp Hội thảo" Doanh nhân với Truyện Kiều và Truyện Kiều với doanh nhân" để những người yêu mến Nguyễn Du và Truyện Kiều tham khảo (Bài 5)

Các doanh nhân nhận Cúp tri ân của Hội Kiều học Việt Nam. Ảnh:TVS
                                                                                                                                NNC HOÀNG KHÔI
 Quan niệm xưa không trọng thương nhân và xem con buôn, thói con buôn là hạng người, là lối xử thế đáng ngờ vực. Khi thừa nhận “phi thương bất phú” tức là đồng nghĩa với việc làm giàu bằng những việc tráo trở, không chính đáng!
Với đồng tiền, người ta cũng gắn với nhiều hệ luỵ xấu bởi tiền có thể mua được nhiều điều (Trong tay đã sẵn đồng tiền/ Dầu rằng đổi trắng thay đen khó gì – Truyện Kiều), nhiều người thấy tiền thì mờ mắt (Máu tham hễ thấy hơi đồng là mê – Truyện Kiều). Nhưng người ta cũng phải công nhận sức mạnh của đồng tiền, khả năng khuynh loát của đồng tiền có thể cứu khốn phò nguy khi cần thiết (Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong – Truyện Kiều). Đồng tiền có thể được xem là một thứ quyền lực mềm rất hiệu quả trong đời sống xưa đến nay.
Trong thực tế, thương nhân là lớp người sử dụng đồng tiền hiệu quả nhất và là người có nhiều khả năng xoay chuyển tình thế để có lợi nhất về mặt kinh tế. Điều này được phản ánh khá rõ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Chúng ta đều biết Truyện Kiều của Nguyễn Du là một tập đại thành về văn hoá Việt, tác phẩm này gần gũi với người Việt đến độ được tin cậy khi vận dụng trong xử thế, thậm chí để xây dựng cả những niềm tin tâm linh, được chuyển hoá thành những hình thức sinh hoạt văn nghệ phổ biến trong cộng đồng như vịnh Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều… Nhiều chính khách trong và ngoài nước cũng hay vận dụng Kiều trong các ứng xử đối nội, đối ngoại và tạo được những hoà đồng rất hiệu quả cho công việc. Tầng lớp thương nhân cũng không phải là một ngoại lệ. Có thể thấy, Truyện Kiều có rất nhiều câu thơ, nhiều chi tiết gợi ý để doanh nhân mọi thời suy nghĩ, vận dụng. Chẳng hạn như câu thơ vừa dẫn ở trên: Trong tay sẵn có đồng tiền có thể là một gợi ý về tư duy trong giao lưu thương mại là sử dụng thế nào cho đồng tiền có hiệu quả cao nhất. Câu thơ: “Thoắt mua về thoắt bán đi” là một gợi ý về bài học kinh doanh. Buôn bán phải chớp nhoáng, phải kịp thời và biến hoá vì để lâu sẽ đọng vốn. Rồi câu thơ “Chung lưng mở một ngôi hàng” có thể là một gợi mở về việc liên kết thương mại chăng? Góp vốn, chung cổ phần thì trường vốn, chung trách nhiệm, nhiều tiếng nói, sáng kiến, tạo uy tín lớn, giảm thiểu rủi ro… Hoặc câu thơ “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ Tài” là đề cập tới nhân cách và việc làm của doanh nhân, là sự cảnh báo cần thiết về trách nhiệm của doanh nhân trước xã hội.
Trong Truyện Kiều còn đề cập đến những thương nhân thành công trong công việc của mình. Hãy thử tìm hiểu về cách họ đạt được.
Có hai loại thương nhân được phản ánh trong Truyện Kiều.
* Tú Bà, Mã Giám Sinh, Bạc Hà, Bạc Hạnh kinh doanh nhan sắc phụ nữ, thường gọi là buôn hương bán phấn.
* Cha con Thúc Ông, Thúc Sinh.
Cách làm của nhóm thứ nhất là đi nhiều nơi để săn tìm nguồn hàng, cố gắng mua được hàng tốt, giá rẻ. Khi đã có hàng thì tìm đủ mọi cách trau chuốt, làm đẹp, nâng giá trị nhằm tạo hiệu quả cao nhất cho đối tác sử dụng. Khi mua, khi bán luôn tìm mọi cách để chào hàng, giữ hàng, tăng giá hàng, miễn là có thể mua với giá thấp nhất và bán với giá cao nhất, đồng thời tính toán mọi rủi ro thiệt hơn.
Rõ ràng đây là những cách thức mang tính chủ động phổ biến và rất có hiệu quả. Thử phân tích một chi tiết: Tú Bà với Mã Giám Sinh đã biết góp vốn “Chung lưng mở một ngôi hàng” để buôn phấn bán hương. Có thể thuở ấy cái vốn của Tú Bà là tiền của và kinh nghiệm nghề nghiệp, còn của Mã Giám Sinh là cái vị thế Giám Sinh cùng với khả năng “Dạo tìm khắp chợ thì quê” “Cò kè bớt một thêm hai”. Mã Giám Sinh với vẻ ngoài lịch duyệt, có vị thế nhất định trong xã hội bấy giờ rõ ràng đã tạo được niềm tin cần thiết với đối tác. Gã đi cùng một đám kẻ hầu người hạ ồn ào và rất chủ động, tự tin. Điều này có khả năng áp đảo đối tác. Ngôn ngữ của họ Mã cũng khá mềm dẻo linh hoạt để tỏ ra trân trọng món hàng được xem như một báu vật: Rằng mua ngọc đến Lam Kiều/ Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường. Tuy nhiên không phải gã không biết mặc cả và một khi đã ngã giá xong xuôi thì phải có biên bản giao kèo ràng buộc “Tờ hoa đã ký, cân vàng mới trao”.
Xin chưa bàn tới đạo đức kinh doanh, mà chỉ xem xét về cách thức. Xét nhân vật Mã Giám Sinh còn có thể chú ý thêm rằng món hàng khi ngã giá là “Ngoài bốn trăm” lạng, song không rõ cách nào Mã Giám Sinh chỉ thực trả có ba trăm cho người bán bởi chính gã thừa nhận “Hẳn ba trăm lạng kém đâu”. Như vậy món hàng nghìn vàng họ Mã chỉ mua giá chưa đầy một phần ba. Rõ ràng họ Mã là một cao thủ trong chuyện bán mua cùng đối tác. Món hàng ấy khi mua chỉ được mụ mối “vén tóc bắt tay” “Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ” (tức là cũng có gia công, trau chuốt thêm) nhưng về với họ Mã thì hắn tranh thủ hưởng lợi trước rồi sau đó tân trang lại “Nước vỏ lựu máu mào gà/ Mượn màu chiêu tập lại là còn nguyên”, và song đến tay Tú Bà còn được mụ “tô lục, chuốt hồng” để: “Càng treo giá ngọc, càng cao phẩm người”. Làm kinh doanh trước hết phải nghĩ trước là vừa vốn, còn sau thì lời, cho nên có thể nói cách làm của Tú Bà, Mã Giám Sinh là một cách làm phổ biến trong thương trường. Người ta thấy ngay hiệu quả khi mẫu mã hấp dẫn đối tác. Ở đây xin không đề cập lối mua bán của cô cháu Bạc Bà, Bạc Hạnh bởi bọn này hoàn toàn sử dụng mánh lối gian thương, thuyết phục lừa đảo và sẵn sàng lật mặt miễn “Mối hàng một đã ra mười thì buông”, tuy nhiên cũng phải hiểu những thủ đoạn mà một bộ phận xấu gian thương vẫn sử dụng và vẫn phải xem đó cũng là một cách trong hành xử bán mua.
Với cha con Thúc Ông, Thúc Sinh. Họ cũng là thương nhân. Không biết họ buôn bán gì, chỉ biết Thúc Sinh “Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Tri” và chắc chắn họ có của ăn của để. Thúc Sinh được miêu tả là người “cũng nòi thư hương” song không thấy học hành thơ phú, chỉ là một tay ăn chơi có cỡ “miệt mài trong cuộc truy hoan” “quen thói bốc rời/ Trăm nghìn đổ một trận cười như không”. Ấy thế nhưng Thúc Sinh toàn thu về mình những món lợi mà không phải ai cũng có được.
Nhân vật Thúc Sinh, ở góc độ là một thương nhân, rất cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng. Có thể nói anh này tầm thường nếu chỉ nhìn vẻ bên ngoài. Song, tìm kỹ hơn sẽ thấy: là một thương nhân ở cái thời xã hội vẫn chưa có sự trân trọng đúng mức, là người trong mạch thư hương nhưng cũng chẳng thể hiện gì nhiều, thế mà Thúc Sinh lại lấy được vợ con quan, mà là quan đầu triều thì phải có một vị thế nào đó? Chơi bời có cỡ, Thúc Sinh kiếm thêm được vợ ngoài luồng mà cô vợ này lại tài sắc nhất nhì lúc bấy giờ là Thuý Kiều “sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai”. Bị vợ cả ghen nhưng danh dự vẫn bảo toàn, vẫn được Hoạn Thư bảo vệ, vì “chồng tao nào phải như ai” và sẵn sàng vả miệng bẻ răng những kẻ ra vào ton hót. Dù bảo vệ không nổi Thuý Kiều khiến nàng phải cao chạy xa bay thế nhưng khi Kiều tổ chức báo ân thì Thúc Sinh lại được tặng một khoản bất ngờ “Gấm trăm cuốn, bạc nghìn cân/ Tạ lòng dễ xứng báo ân gọi là”. Lâu nay người ta chê Thúc Sinh và kể cả tác giả cuốn sách, cụ Nguyễn Du cũng có ý rằng “Nghĩ tình chàng Thúc mà thương” bởi hầu như lúc nào anh này cũng có vẻ thụ động, ngơ ngác, song tôi nghĩ có khác. Thúc Sinh có cái may mắn, có số đào hoa, số giàu sang chiếu mệnh? Rất có thể. Nhưng lý giải như thế thì chưa thật thoả mãn. Tìm những đánh giá về nhân vật này trong Truyện Kiều, tôi lưu ý tới nhận xét của Thuý Kiều. Trong buổi báo ân, Thuý Kiều đã có một đánh giá rất đáng suy nghĩ: “Nàng rằng nghĩa trọng ngàn non”. Kiều dùng chữ nghĩa để chỉ bản chất Thúc Sinh. Nghĩa tức là tuân theo lối phải, là mang tính đúng đắn, rõ ràng. Có thể nhiều người không thấy điều này như Kiều, hoặc chỉ cảm nhận được mà không nói ra được. Có thể cái cách ứng xử “quen thói bốc rời” của Thúc Sinh khiến người ta tưởng anh này vung tay áo xô đốt nhà táng giấy. Thúc Sinh “bốc rời” nhưng anh ta là kẻ “mộ tiếng Kiều nhi” biết nàng có tài có sắc lại cảm thông với hoàn cảnh nàng nên đã chuộc nàng ra khỏi lầu xanh. Thúc Sinh bị cha mắng mỏ, bị quan xử án quy tội “dại nết chơi bời” nhưng chàng chỉ tìm mọi cách nói đỡ cho Thuý Kiều. Thúc Sinh bị vợ ghen và hành hạ Thuý Kiều khiến họ “nhìn chẳng được nhau/ Làm cho đày đoạ cất đầu chẳng lên” buộc chàng phải nói Kiều bỏ trốn nhưng vẫn bày tỏ với Kiều và nàng cũng hiểu được lòng chàng như “Con tằm đến chết cũng còn vương tơ” ứng xử ấy phải chăng là biểu hiện của tinh thần nghĩa. Chỉ duy nhất Thuý Kiều phát hiện ở Thúc Sinh có cái tinh thần nghĩa ấy và nàng không chỉ nói điều này một lần khi báo ân. Ngay khi phải buộc trốn khỏi nhà Hoạn Thư, Kiều đã nói với Thúc Sinh điều đó: Xót thay chút nghĩa cũ càng. Nàng thấy Thúc Sinh có nghĩa và nàng đối xử với chàng cũng theo nghĩa. Có lẽ cái ứng xử mang nét nghĩa một cách âm thầm của Thúc Sinh khiến chàng có một kết thúc có hậu? Cái chữ nghĩa mà Thuý Kiều dùng chỉ Thúc Sinh cũng như ứng xử của nàng mang đậm tinh thần của dân gian như câu ca dao nhiều người biết:
Nghĩa người ta để lên cân
Bên vàng nặng ít bên ân nặng nhiều
và điều này giải thích nguyên nhân đắc lợi ở nhân vật Thúc Sinh.
Trở lại với hai nhóm doanh nhân và phương pháp làm việc của họ, có thể thấy đại đa số doanh nhân có cách nghĩ, cách làm như nhóm thứ nhất. Việc làm đó trong mua bán là có hiệu quả. Nhưng có thể khẳng định cách làm có hiệu quả cao hơn trong ứng xử doanh nhân là sự trung thực, tình nghĩa, mà phải là chừng mực tạo được niềm tin cho đối tác. Nói cách khác, trọng nghĩa phải là một tiêu chí quan trọng hàng đầu của ứng xử doanh nhân. Điều này đòi hỏi nhiều ở sự hiểu biết, ở phẩm chất văn hoá và tấm lòng của từng con người cụ thể. Vì thế, trong Truyện Kiều cụ Nguyễn Du cũng đã nhắc ta rằng: chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài.


THƯƠNG GIA VÀ CON BUÔN TRONG TRUYỆN KIỀU

LTS: Xin tiếp tục giới thiệu tham luận tại Hội thảo: “Doanh nhân với Truyện Kiều & Truyện Kiều với doanh nhân”. Bài 4
Nhà thơ Vương Trọng tham luạn tại Hội thảo. Ảnh TVS
      NHÀ THƠ VƯƠNG TRỌNG

Cùng kinh doanh bằng cách mua bán hàng hóa, cụ thể là mua rẻ bán đắt để ăn giá chênh lệch, nhưng người Việt mình nói chung cũng như cụ Nguyễn Du nói riêng đã phân biệt hai loại người làm nghề đó. Một loại làm ăn đàng hoàng, thường là có vốn lớn, được gọi là thương gia, còn loại kia gian dối trong mua bán, có khi lừa đảo, thường làm ăn manh mún, chụp giật…được gọi là con buôn. Thương gia và con buôn cái chính không phải khác nhau về quy mô kinh doanh, mà là đạo đức kinh doanh. Nhân dân ta dành những từ tốt đẹp cho giới thương gia, và coi khinh phẩm giá của con buôn.
Thương gia trong Truyện Kiều chỉ có hai nhân vật phụ, lướt qua rất nhanh, Nguyễn Du vẫn đủ thời gian thể hiện lòng trân trọng và có khi là nỗi cảm thông. Nhân vật thương gia thứ nhất không rõ tên gọi là gì, chỉ biết ngôi nhà của người ấy nằm sát ngôi nhà của Thúy Kiều, được Nguyễn Du giới thiệu:
Là nhà Ngô Việt thương gia
Buồng không để đó, người xa chưa về
Cặp lục bát này ngoài việc thể hiện cơ hội cho Kim Trọng có thể thuê ở, làm nơi đọc sách, thì hình như bộc bạch cảm thông của Nguyễn Du với người thương gia mải buôn bán xa xôi, chưa trở lại nhà mình. Câu thơ đượm vẻ buồn thương. Bằng cách nào đó thương lượng đã xong, Kim Trọng “Túi đàn cặp sách đề huề dọn sang” ngôi nhà vừa thuê đươc! “Túi đàn cặp sách” là “tài sản văn hóa” của chàng Kim, thì cảnh nhà thương gia này cũng rất tương xứng:
Có cây, có đá sẵn sàng
Có hiên Lãm Thúy nét vàng chưa phai
Tức là vị thương gia này đã tạo phong cảnh cho nhà mình bằng cây cảnh và hòn non bộ, lại có cả cái hiên ngồi để thưởng ngoạn cảnh đẹp, có biển đề “Lãm Thúy” màu vàng rõ nét. Chàng Kim tỏ ra thật hài lòng với nơi ở này, đâu chỉ vì hai chữ Lãm Thúy nét vàng kia một phần trùng với tên Thúy Kiều là người đẹp chàng đang đeo đuổi, mà quan trọng là quang cảnh được tạo dựng ở đây. Miêu tả cảnh nhà vị “Ngô Việt thương gia” này khác xa cơ ngơi những kẻ nhiều tiền nhưng thiếu văn hóa, là một cách Nguyễn Du thể hiện cảm tình và lòng trân trọng của mình.
Vị thương gia thứ hai trong Truyện Kiều đề cập tới là Thúc Ông, bố của Thúc Sinh. Ta biết được nghề nghiệp, gia cảnh của ông này qua lời giới thiệu về Thúc Sinh:
Khách du bỗng có một người
Kỳ Tâm, họ Thúc cũng nòi thư hương
Vốn người huyện Tích, châu Thường
Theo nghiêm đường mở ngôi hàng Lâm Truy.
Như thế, Thúc Ông, bố của Thúc Sinh là người làm nghề buôn bán, quê ở châu Thường, huyện Vô Tích, hiện mở ngôi hàng ở Lâm Tri. Bản thân Thúc Ông hoặc thế hệ trước ông được học hành tử tế, thì Thúc Sinh mới mang danh “nòi thư hương” được. Chắc chắn gia đình Thúc Ông giàu có, được mọi người nể trọng…thì Thúc Sinh mới được kết duyên cùng Hoạn Thư, con gái Thượng thư bộ Lại. Thời phong kiến, nhất là phong kiến Trung Quốc, “môn đăng hộ đối” được tuân thủ nghiêm ngặt, qua gia thế của Thượng thư bộ Lại “Ngước trông tòa rộng, dãy dài/ Thiên Quan Trủng Tể có bài treo trên”, ta hiểu được gia cảnh của Thúc ông: giàu có, sang trọng.
Thúc Ông xuất hiện trong Truyện Kiều không nhiều, nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Du, ta thấy ông có vẻ đàng hoàng của một vị quan hơn là người buôn bán:
Giậu thu vừa nẩy giò sương
Gối yên đã thấy xuân đường tới nơi
Đây là hình ảnh Thúc Ông sau thời gian về thăm quê trở lại Lâm Tri. Cảnh thì đẹp mà người thì ung dung, khoan thai. Đặc biệt là thái độ của Thúc Ông khi nghe Thúc Sinh cưới Thúy Kiều. Đó cũng là phản ứng của các nhà nho truyền thống, không thể cho con trai lấy gái lầu xanh làm vợ, nên “Phong lôi nổi trận tơi bời” với ý định “Dạy cho má phấn trở về lầu xanh” là chuyện đúng đạo lý. Nhưng Thúc Sinh cương quyết không chịu bỏ Thúy Kiều, Thúc Ông cư xử cũng hết sức đàng hoàng, không hề mắng chửi, mà “cáo quỳ cửa công” tức là đem kiện con trai ra tòa. Đây cũng là hành động của một người có văn hóa, hiểu pháp lý, không đem cái thế của bậc cha mẹ áp đặt cho con. Nhờ tài thơ đã cứu Thúy Kiều, vị quan “mặt sắt đen sì” đã bị khuất phục, đem tình thay lý khi tuyên bố “ Dâu con trong đạo gia đình/ Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong” thì “Thúc Ông thôi cũng dẹp lời phong ba” mà tuân thủ kết quả xử kiện không có lợi cho mình. Kết quả này một phần do tài năng của Thúy Kiều, nhưng một phần quan trọng là thái độ cầu thị của Thúc Ông, biết đổi thay thái độ theo tình thế mới.
Lòng tốt của Thúc Ông còn thể hiện trong một năm ông sống gần Thúy Kiều ở Lâm Tri khi Thúc Sinh về với Hoạn Thư ở Vô Tích. Rồi khi bọn Khuyển Ưng đốt nhà, bắt Thúy Kiều, lập hiện trường giả, tưởng Thúy Kiều bị chết cháy, Thúc Ông vô cùng thương xót, đã thu gom di hài về nhà cúng tế. Tóm lại, dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Thúc Ông là một thương gia đáng kính.
Người buôn bán đàng hoàng, được gọi là thương gia chỉ có hai nhân vật rất phụ ấy. Hầu hết kẻ làm nghề buôn bán trong Truyện Kiều là bọn làm ăn bất chính, phi pháp, gian dối, lừa đảo, vô văn hóa được xếp vào loại con buôn. Nguyễn Du đã định nghĩa về con buôn như sau:
Khác màu kẻ quý người thanh
Ngẫm ra cho kỹ như hình con buôn
Như vậy, con buôn là loại người có phẩm chất thấp kém, khác hẳn những người có văn hóa.
Ta hãy lần lượt điểm mặt, chỉ tên bọn chúng.
Đầu tiên là Mã Giám Sinh. Tay này bất hảo từ lý lịch. Y là một kẻ phong tình , trác táng. Địa bàn quen thuộc là chốn lầu xanh. Khi có tiền thì chơi cho nhẵn túi, rồi lại hành nghề ngay mảnh đất đó, giống như thời nay một số tay anh chị thường tuyên bố “ngã xuống nơi nào thì đứng lên từ nơi đó”! Nghề của y là buôn người, “Đem về tiếp khách kiếm lời mà ăn” như Tú Bà đã đúc kết. Y có đầy đủ thuộc tính bất hảo của con buôn, vô văn hóa trong ứng xử, “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng” khi y đến để mua Kiều. Mặc cả là chuyện thường tình của việc mua bán, nhưng “Cò kè bớt một thêm hai” thì chỉ việc làm của con buôn. Một trong những đặc trưng của bọn buôn là gian dối. Gian dối trong hành động và lới nói. Trước hết, y che giấu chuyện đi mua Thúy Kiều bằng việc đóng vai một phú ông “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” đi tìm vợ thiếp. Sự thật mua Kiều về để tiếp khách ở Lâm Tri, nhưng y nói đưa về quê y ở Lâm Thanh, với mục đích gây khó khăn nếu sau này gia đình tìm kiếm nàng. Gian dối trong lời nói, gian dối trong tính toán. Ta hãy xét xem cách suy nghĩ, tính toán của y trong nhà trọ với Thúy Kiều, trước khi khởi hành về Lâm Tri. Máu con buôn trước hết xem lời lãi ra sao của món hàng mình vừa mua được:
Về đây nước trước bẻ hoa
Vương tôn quý khách ắt là đua nhau
Hẳn ba trăm lạng kém đâu
Cũng đà vừa vốn còn sau thì lời.
Sao lại ba trăm lạng đã vừa vốn, khi giá mua Thúy Kiều là “Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm”? Chắc Mã Giám Sinh không nhầm mà tác giả Truyện Kiều đã nhầm lẫn giữa giá bán nàng Kiều với cái giá mà gia đình Vương Ông phải nạp cho bọn sai nha “ Tính bài lót đó, luồn đây/ Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”. Cảm hứng đầu tiên đến với Mã là tiền lãi do món hàng hời là Thúy Kiều đem về. Cảm hứng thứ hai trỗi dậy xuất phát từ hắn là “một đứa phong tình”, muốn chiếm đoạt nàng Kiều. Nàng Kiều trước khi bán mình thì cân nhắc “ bên tình bên hiếu”, còn gã Mã trước khi hành động thì phân vân giữa “vốn nhà” và “của trời”: “Vốn nhà cũng tiếc, của trời cũng ham”!. Nếu gã hành động, chiếm được “của trời” này thì ảnh hưởng đến “vốn nhà”, tức món hàng bị mất giá. Nhưng sau đó mọi lập luận của gã đều khuyến khích gã hành động. Thứ nhất, cái đáng lo nhất là nàng Kiều mất trinh, thì giải quyết được để lừa khách làng chơi theo thủ pháp “nước vỏ lựu, máu mào gà” để hoàn trinh, lúc đó giá món hàng vẫn như cũ “Bao nhiêu cũng bấy nhiêu tiền mất chi”. Thứ hai, Mã Giám Sinh biết biện pháp đó có thể không lừa được Tú Bà, khi đó nếu mụ trị tội thì cùng lắm chịu hèn “Liều công mất một buổi quỳ mà thôi”! Lập luận thứ ba của Mã mới thật lưu manh và đê tiện:
“Vả đây đường sá xa xôi
Mà ta bất động nữa người sinh nghi”.
Có người giải thích như sau: Chữ người trong câu này chỉ Thúy Kiều, Mã nghĩ nếu mình không làm tình thì Thúy Kiều sẽ nghi (chắc là nghi không phải mua về làm vợ thiếp). Tôi không nghĩ như thế, vì cái nghi đó nếu có của Thúy Kiều thì lúc này, khi đã bắt đầu lên đường về Lâm Tri thì Mã không có gì đáng ngại nữa. Theo tôi, chữ “người” trong câu này chỉ Tú Bà. Ý của Mã là: Vì đường sá xa xôi, một tháng ròng chung xe với Thúy Kiều, điều kiện hết sức thuận lợi để chung chạ, nếu như mình không làm gì thì Tú Bà vẫn nghi mình làm, thế thì chẳng dại gì mà mình không làm! Lập luận tiểu nhân, con buôn đã đưa Mã đến hành động, một kiểu làm tình đầy thú tính: “ Một cơn mưa gió nặng nề/ Thương gì đến ngọc, tiếc gì đến hương”!
Con buôn thứ hai là mụ Tú Bà, chung lưng mở ngôi nhà chứa cùng Mã Giám Sinh ở Lâm Tri. Mụ này cũng mang lý lịch bất hảo : “ Làng chơi đã trở về già hết duyên”, nghĩa là thời trẻ thì mụ làm gái lầu xanh, về già thì làm chủ chứa. Nguyễn Du khắc họa mụ con buôn này từ hình thức đến đến hành động thật đáng ghét:
Thoắt trông nhờn nhợt màu da
Ăn gì cao lớn đẫy đà làm sao
Trước xe lơi lả han chào…
Da cớm nắng, béo phệ, to lớn khác thường thế không biết mụ “ăn gì”.? Và chính hai chữ “ăn gì” ấy đã nói được thái độ của tác giả Truyện Kiều đối với mụ chủ chứa này. Mụ thao tác các công việc điều hành lầu xanh này khá thành thạo, từ bài học nhập môn cho “món hàng” mới đưa về, đến việc xử lý bị ế khách. Gian dối là thuộc tính của con buôn, Tú Bà không thiếu. Khi Tú Bà sắp hành hung vì tội đã chung chạ với Mã Giám Sinh, Thúy Kiều toan tự tử bằng cách dùng dao cắt cổ, thì điều sợ nhất của Tú Bà là mất vốn. Với thái độ dỗ dành, mụ đã thuyết phục được Thúy Kiều từ lời nói dối:
Lỡ chân trót đã vào đây
Khóa buồng xuân để đợi ngày đào non
Người còn thì của hãy còn
Tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà…
Mụ sẵn sàng thề thốt gian dối, dù trong thâm tâm mụ không mảy may nghĩ tới nội dung của lời thề đó:
Mai sau dẫu chẳng như lời
Trên đầu có bóng mặt trời rạng soi.
Mụ chủ chứa nói với cô gái được mua về để tiếp khách rằng cứ ở đây chờ đợi xem có chỗ nào xứng đáng thì sẽ chọn gả chồng! Lời nói dối trơ trẽn này chắc đã lừa được nhiều cô gái nhà lành rồi, nay mụ lại thành công với Thúy Kiều. Một đặc tính con buôn của mụ Tú Bà là lắm âm mưu và nhiều tráo trở. Hình như tình huống nào mụ cũng có phương án dự phòng để giải quyết và thái độ của mụ nhanh chóng biến đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác trái ngược ngay trong nháy mắt. Bản thân Thúy Kiều cũng nhận ra đặc tính con buôn của Tú Bà là luôn lo sợ mất vốn, chứ không phải có lòng nhân ái biết yêu thương người khác. Bởi vậy, sau khi bỏ trốn theo Sở Khanh bị Tú Bà bắt được đánh cho một trận tơi bời, Thúy Kiều chỉ cần nói một câu là Tú Bà không dám đánh nữa. Câu đó là:
Nhưng tôi có sá chi tôi
Phận tôi đành vậy, vốn người để đâu?
Nói nôm na ra rằng tôi chả là gì đâu, tôi chả mong chờ gì tình thương của bà đâu, nhưng bà cẩn thận đấy, nếu đánh tôi chết là bà mất vốn! Chữ “vốn” đã thức tỉnh mụ dừng tay hành hạ, dẹp cơn thịnh nộ mà nhớ lại ý định chỉ “cho một bài học” để Kiều biết phận sự của cô gái lầu xanh mà thôi!
Con buôn thứ ba được Truyện Kiều đề cập là Bạc Bà, Bạc Hạnh. Đây là loại con buôn không có cửa hàng, mà chỉ là một loại “cộng tác viên” cung cấp gái điếm cho nhà chứa. Bề ngoài Bạc Hạnh là một Phật tử, từng đến Chiêu Ẩn Am của Giác Duyên và Quan Âm Các của gia đình Hoạn Thư nhiều lần. Thế nhưng việc làm của Bạc Hà hoàn toàn ngược lại điều răn dạy của Phật, không hề có ý giúp người trong cảnh hoạn nạn, mà lợi dụng tình thế khó khăn của Thúy Kiều để kiếm tiền. Mụ làm bài bản từng bước, từ vu oan cho Kiều nhiều tội, để bảo rằng không ai còn dám chứa chấp, chỉ có cách tìm người để gả chồng cho nàng. Dù Thúy Kiều đã cảnh giác, nhưng do hoàn cảnh đưa đẩy, theo sự sắp đặt, nàng phải lấy Bạc Hạnh, cháu Bạc Hà, và được mụ giới thiệu như sau:
Này chàng Bạc Hạnh cháu nhà
Cùng trong thân thích ruột rà chẳng ai
Cửa nhà buôn bán Châu Thai
Thật thà có một đơn sai chẳng hề.
Người đàn bà đội lốt Phật tử Bạc Bà, đích thị con buôn, đã nói dối hết sức trơ tráo, làm cho người nghe tưởng Bạc Hạnh cháu mụ là “người chồng lý tưởng”, nhưng thực chất nó là thằng dắt gái chuyện nghiệp cho nhà chứa Châu Thai! Thằng này vô liêm sỉ không kém khi trong lễ thành hôn giả vờ với Thúy Kiều, nó ra vẻ chân thành “Quá lời nguyện hết thành hoàng thổ công”, thực ra là chuẩn bị đưa Kiều đi bán. Không phải chỉ đối với Thúy Kiều, mà trước đây chính hắn đã dẫn bán nhiều cô gái cho nhà chứa:
Thuyền vừa đỗ bến thảnh thơi
Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày
Ba chữ “nơi mọi ngày” nói đầy đủ rằng công việc này, địa bàn này quá quen thuộc đối với hắn, nên chỉ cần thỏa thuận giá cả là xong:
Xem người định giá vừa rồi
Mối hàng một đã ra mười thì buông.
Phải chăng trong phi vụ “một vốn mười lời” này, tiền vốn mua Kiều, Bạc Hạnh bỏ ra thì đưa cho Bạc Bà, vì Giác Duyên không hề dính dáng? Một điều chắc chắn rằng, chỉ vì những đồng tiền bẩn thỉu mà bọn con buôn Bạc Bà, Bạc Hạnh đã đưa nàng Kiều trở lại vũng lầy lầu xanh!
Con buôn thứ năm trong Truyện Kiều là mụ chủ chứa ở lầu xanh Châu Thai. Nguyễn Du không cần nhắc tên mụ, mà chỉ gợi bằng bốn câu:
Kiệu hoa đặt trước thềm hoa
Bên trong thấy một mụ ra vội vàng
Đưa nàng vào lạy gia đường
Cũng thần mày trắng, cũng phường lầu xanh
Bạn đọc sẽ tự hình dung ra hình dáng cũng như đức tính con buôn của mụ chủ chứa này từ Tú Bà ở Lâm Tri. Và có điều đáng nói, có lẽ mụ ta đã “trúng quả đậm”,  khi được Từ Hải mua lại nàng Kiều:
Ngỏ lời nói với băng nhân
Tiền trăm lại cứ nguyên ngân phát hoàn
Lợi nhuận mụ chủ chứa này thu được chắc hơn hẳn món Tú Bà đã hưởng lợi, vì “tiền trăm nguyên ngân” của Từ Hải chắc vượt xa số tiền chàng Thúc mê gái  “quen thói bốc rời”!
Những con buôn ta vừa điểm tới là những kẻ buôn người. Trong Truyện Kiều có một con buôn (trong Kim Vân Kiều Truyện thì hai) không buôn người mà buôn…tơ. Con buôn này được Nguyễn Du gọi là “thằng bán tơ”. Ở thằng này, Truyện Kiều khai thác tính cách gian dối của con buôn là có thể bịa đặt đổ tội cho người khác, để hòng làm nhẹ tội cho mình. Và tác hại của điều đó thì tất cả chúng ta đã tỏ: gây nên cảnh gia biến của Vương Ông, khiến Thúy Kiều phải bán mình chuộc cha!
Buôn bán là một khâu hết sức quan trọng trong dịch vụ phân phối sản phẩm, có tác dụng thúc đẩy sản xuất phát triển, nâng cao đời sống cộng đồng. Dân ta từ xưa đến nay luôn coi trọng việc kinh doanh này, thể hiện trong câu thành ngữ “Phi thương bất phú”. Theo tôi, câu này có hai ý. Thứ nhất người không kinh doanh, buôn bán thì khó giàu. Thứ hai, một đất nước, một nền kinh tế mà kinh doanh, buôn bán không phát triển thì khó mà giàu có được. Buôn bán quan trọng là vậy, nhưng nhân dân, đất nước cần những người buôn bán đàng hoàng, và không chấp nhận bọn lừa đảo, buôn gian bán lậu, thiếu hẳn văn hóa kinh doanh. Đọc lại Truyện Kiều thấy rằng cụ Nguyễn Du còn muốn nhắn lời với những người làm nghề này không chỉ trong thời đại của Cụ: Muốn được xã hội nể trọng thì buôn bán phải đàng hoàng xứng với hai chữ THƯƠNG GIA, còn nếu vì đồng tiền bẩn thỉu che mất tầm nhìn, lừa đảo, buôn gian bán lận…thì muôn đời mang theo lời chê trách, phỉ nhổ cùng hai chữ CON BUÔN!


                                                                                                        8 - 2017

DOANH NHÂN VỚI “TRUYỆN KIỀU” VÀ “TRUYỆN KIỀU” VỚI DOANH NHÂN

LTS: Xin trân trọng giới thiệu với độc giả phát biểu khai mạc Hội thảo của Giáo sư Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam tại Hội thảo "Doanh nhân với Truyện Kiều, Truyện Kiều với doanh nhân" 
Giáo sư Phong Lê , TS Võ Hồng Hải, TS Phạm Văn Tuần chủ trì Hội thảo. Ảnh TVS

                  GIÁO SƯ PHONG LÊ
Ở phát biểu khai mạc này, tôi muốn có một hình dung về một gắn kết giữa hai vế, đó là vế Doanh nhân, và vế Truyện Kiều.
Về Doanh nhân, tôi nghĩ rất cần ôn lại một lịch sử dài với những biến đổi và thăng trầm của nó.
Nhiều nghìn năm trong xã hội phong kiến, dựa trên hệ ý thức Nho giáo và nền kinh tế tiểu nông, trật tự gần như không thay đổi của các thành phần cư dân - đó là Sỹ, Nông, Công, Thương. Chính sự coi nhẹ và kìm hãm hai thành phần Công và Thương tạo nên sự đình trệ của xã hội. Thời hiện đại dựa trên năng lực kiến tạo của giai cấp tư sản đã được thực hiện sớm ở phương Tây, và đưa các doanh nhân lên vị trí hàng đầu, tạo nên một chuyển động nhảy vọt làm nên gương mặt thế giới hôm nay. Việt Nam ta, sau Cách mạng tháng Tám, do hoàn cảnh chiến tranh và chịu áp lực của cuộc chiến giữa hai phe, trong một thời gian dài giai cấp tư sản và vị trí của các doanh nhân hoàn toàn bị lu mờ, thậm chí còn là đối tượng của cách mạng. Phải đến thời Đổi mới, trước áp lực của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì tình thế mới có sự thay đổi, nhưng vẫn còn rất chậm chạp vì trăm thứ khó khăn bủa vây, trong đó có nguyên nhân chủ quan nằm trong thiết chế thượng tầng khiến cho thành phần kinh tế tư nhân không thể phát triển. Phải sang thế kỷ XXI thì một tháo gỡ và khởi sắc cho tình thế trên mới xuất hiện trong các Nghị quyết mới của Đảng và hoạt động của chính quyền, chuyển từ chính quyền là công cụ chuyên chính sang chính quyền kiến tạo và phục vụ. Con số 60 vạn doanh nghiệp hiện có hôm nay, cùng với ao ước 1 triệu doanh nghiệp sẽ có năm 2020 cho ta một hy vọng tình thế đất nước sẽ thay đổi với vai trò của các doanh nhân, khi mọi khó khăn của họ dần dần và từng bước được tháo gỡ. Nếu tính trung bình mỗi doanh nghiệp tạo được công ăn việc làm cho ít nhất 50 người thì đất nước trên dưới 100 triệu dân của chúng ta sẽ có 50 triệu người có việc làm. Và khái niệm giàu có cùng mục tiêu làm giàu sẽ là một cái đích hấp dẫn, chung cho cá nhân và cộng đồng, thay cho sự kỳ thị người giàu và mục tiêu chia đều cái đói cho mọi người, trong một thời dài còn chưa xa.
Về Truyện Kiều. Trước khi nói đến Truyện Kiều cần phải nói qua về Nguyễn Du.
Đối với dân tộc Việt Nam, Nguyễn Du là một tác gia lớn, với một sự nghiệp viết không thực đồ sộ nhưng có giá trị kết tinh rất cao. Trước hết đó là ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (78 bài), Nam Trung tạp ngâm (34 bài), Bắc hành tạp lục (131 bài) in rất đậm bản sắc và bản lĩnh cá nhân của một hồn thơ rất giàu tình thương đời, tình yêu nước và yêu dân. Cùng với thơ chữ Hán là thơ Nôm, với Văn tế thập loại chúng sinh, 184 câu song thất lục bát, dồn chứa một cảm thông cùng tận với tất cả những thân phận khổ đau, bất hạnh. Trước đó là hai tác phẩm ngắn ở tuổi hoa niên: Thác lời trai phường nónSinh tế Trường Lưu nhị nữ
Nếu chỉ bấy nhiêu thôi, Nguyễn Du cũng đã đủ tư cách một tác gia tiêu biểu, ở hàng đầu của văn chương Việt trung đại như nhiều tên tuổi khác trước và sau ông. Thế nhưng Nguyễn Du còn là tác giả của Truyện Kiều; và đây mới thực là một sự kiện làm thay đổi tầm vóc, khiến cho Nguyễn Du trở thành một đỉnh cao đột xuất của văn chương Việt; và với tầm vóc đó, rất dễ dàng và nhanh chóng, không chỉ công chúng Việt mà về sau là cả nhân loại nhận ra ngay một tương đồng giữa Nguyễn Du với nhiều danh nhân khác trên thế giới như Đantê (1265-1321) với Thần khúc của Ý; như Xecvăngtet (1547 – 1616) với Đông ki sốt của Tây Ban Nha; như Gớt (1749-1832) với Phaux của Đức; như Puskin (1799-1837) với Épghênhi Ônêghin của Nga… Có nghĩa là, cũng như Thần khúc, Đông ki sốt, Phaux, Épghênhi Ônêghin, Truyện Kiều là kết quả một thăng hoa đột xuất của Nguyễn Du, khiến cho chỉ cần nói đến Truyện Kiều là đủ để nói Nguyễn Du - người đã đem lại một giá trị tinh thần rất tươi mới và đặc trưng cho văn chương Việt, ngôn ngữ Việt, bản sắc Việt, hồn Việt…
Trên dưới 35 văn bản dịch Truyện Kiều của hơn 20 ngôn ngữ trên thế giới trong hơn một thế kỷ qua, và vẫn còn đang được tiếp tục - đó là đường biên rộng nhất cho sức lan tỏa của một tác phẩm.
Cũng cần lưu ý là nhân loại hôm nay có trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chắc là văn học dân gian và văn học thành văn ở mỗi nơi đều có; nhưng để có những tác gia gắn với những kiệt tác mang giá trị nhân loại, được cả thế giới tôn vinh thì chắc là không nhiều, chỉ ở con số chục. Và Truyện Kiều của Nguyễn Du ở Việt Nam ta là một trong số đó.
Truyện Kiều có sự sống bền vững như thế nào thì đã có một lịch sử ngót 200 năm minh chứng, với bao nhiêu bộ tuyển hàng nghìn trang do nhiều trăm tác giả thành danh viết ra, nếu tính từ bài viết đầu tiên, năm 1820 của Mộng Liên Đường chủ nhân: “… nếu không có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì không thể có cái bút lực đó”.
200 năm không lúc nào nhân dân ta ngừng nghỉ việc đọc Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, tập Kiều, xướng hoạ về Kiều, dựng sân khấu Kiều… Và bói Kiều. Bởi lòng tin Kiều trả lời được tất cả mọi tình huống sống ở đời; và con người ở bất cứ hoàn cảnh nào, đứng trước câu hỏi nào cũng có thể tìm được lời giải đáp cho mình sau lời khấn: “Lạy ông Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều…”
3254 câu Kiều, đó là bộ bách khoa toàn thư của đời sống Việt trong hơn 200 năm qua. 3254 câu, câu nào cũng có thể in sâu vào bộ nhớ con người, để cho những bà mẹ mù chữ có thể thuộc lòng hàng trăm câu, hoặc đọc ngược từng đoạn mà vận vào mọi tình huống sống của đời mình; để cùng với ca dao, dân ca khắp các vùng miền mà tạo nên hồn cốt Việt, tâm linh Việt, bản sắc Việt, bản lĩnh Việt…
*
Trở lại mối quan hệ giữa Doanh nhân với Truyện Kiều, và Truyện Kiều với Doanh nhân ở thời điểm hôm nay.
Nói Nguyễn Du trước hết là nói sự kết đọng nỗi đau nhân sinh trong hai câu thơ bất hủ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(Truyện Kiều)
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu
(Văn chiêu hồn)
Truyện Kiều không phải là bài ca chống lễ giáo như tất cả các truyện thơ nôm ra đời cùng thời, và về sau. Mà là một chủ nghĩa nhân đạo rộng lớn ôm hết mọi khổ đau trong kiếp sống nhân sinh của một nửa nhân loại.
Và nói thế giới nhân sinh Nguyễn Du còn là nói “thập loại chúng sinh”. Mười loại chứ không phải ba, bốn hoặc bảy, tám…
Chị Lành, con gái Thầy Tú Nghệ, một người được tôn vinh là cây từ điển sống về Truyện Kiều của vùng Nghệ tĩnh những năm 60, 70 thế kỷ trước phát biểu tại Hội thảo.
                                                                                                                                                                                                 Ảnh TVS
Tất cả chúng ta ở đây, gồm các anh chị, nam và nữ, các quý ông quý bà có ai ở ngoài tầm quan sát của Nguyễn Du? Do vậy mà mọi trải nghiệm cùng khát vọng trao truyền hoặc chia sẻ của Nguyễn Du là phủ khắp mọi mặt đời sống; là sự đúc kết những bài học sống, xử thế có ý nghĩa nhân loại và cho muôn đời. Nói cách khác, có tình huống nào của đời sống mà vượt ra khỏi được tầm ngắm hoặc vùng phủ sóng của Nguyễn Du, qua 3254 câu, không câu nào có thể bỏ sót hoặc lướt qua. Đến cả một xứ sở xa lạ với ta như Hoa Kỳ mà hai Tổng thống và một Phó Tổng thống cũng biết cách vận Kiều trong giao tiếp:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
                                         (B.Clinton - 2000)
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
                                         (J.Biden - 2015)
Rằng trăm năm cũng từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi
                                         (B.Obama - 2016)
Vận Kiều vào mọi tình huống cụ thể của đời sống, đó là thói quen, gần như là tín ngưỡng của người dân Việt thuộc mọi tầng lớp, suốt hai trăm năm qua. Trước đây là trí thức và nông dân, kể từ một ông vua tự nhận mình là hay chữ như Tự Đức đến bất cứ ai thuộc trong số nhân quần mù chữ. Còn bây giờ là mọi tầng lớp cư dân, xét theo xã hội học hiện đại (chứ không phải xã hội học tư sản) là gồm 5 bộ phận: giới hoạt động chính trị, giới quản lý hành chính, giới doanh nhân, giới trí thức, và những người lao động có kỹ năng nghề nghiệp. Năm thành phần cư dân, chứ không phải là cách chẻ nhỏ ra thành bần, cố, trung nông và phú nông, địa chủ; là vô sản và tư sản hoặc tiểu tư sản (trong đó có giới trí thức)… Hai lần kỷ niệm năm sinh, vào năm 1965 và năm 2015 là hai lần Nguyễn Du bước ra đại lộ văn minh nhân loại. Sau lần thứ hai, kỷ niệm 250 năm sinh - năm 2015, chúng ta đang xích lại gần tới kỷ niệm 200 năm mất của Đại thi hào, năm 2020. Đó là ngày giỗ lớn của dân tộc Việt. Xét theo tâm linh phương Đông và Việt Nam ta thì đó là ngày thiêng. Cuộc toạ đàm và giao lưu hôm nay là nhằm hướng tới ngày giỗ lớn đó, khi đất nước đang chuyển vào một vận hội lớn, nhằm tạo nên sự phát triển nhanh chóng và bền vững cho đất nước; sứ mệnh đó trước hết đặt lên vai giới Doanh nhân và nền kinh tế Tư nhân, như trong các Nghị quyết của Đảng, và mọi bàn thảo của các Đoàn thể và Quốc hội gần đây.
Hy vọng những phát biểu dưới hình thức giao lưu và toạ đàm hôm nay sẽ là minh chứng cho các giá trị tinh thần mang tính nhân loại và vĩnh cửu được kết tinh từ những đỉnh cao kiệt xuất của văn hoá dân tộc - như Nguyễn Du.  
Tiếp đây là bài phát biểu của TS. Phạm Văn Tuần – Tổng Giám đốc Hanvico Ấm áp như lòng mẹ; người con của quê hương Hà Tĩnh; người bạn rất thân thiết của Hội Kiều học Việt Nam; người đồng tổ chức cuộc giao lưu tọa đàm rất có ý nghĩa này.
    
    Thảo 29/5/2017
  Chữa tháng 9/2017





TRUYỆN KIỀU VÀ VẤN ĐỀ KINH DOANH VÀI NÉT TỔNG QUAN

LTS: Xin tiếp tục giới thiệu tham luận tại Hội thảo: “Doanh nhân với Truyện Kiều & Truyện Kiều với doanh nhân”. Bài 2 

Tác giả trình bày tham luận tại Hội thảo. Ảnh TVS
TRẦN ĐÌNH TUẤN
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với nền kinh tế thị trường trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hoá và thế giới đang hướng đến Xã hội tri thức (Báo cáo Thế giới 2005 của UNESCO đã lấy nhan đề là Hướng tới các Xã hội tri thức). Doanh nghiệp Việt Nam buộc phải khẳng định mình trước các vấn đề lớn: Anh là ai (quốc gia, dân tộc)? Có trách nhiệm gì với xã hội? Sứ mệnh của anh đóng góp được gì cho lợi ích cộng đồng. Và anh có thể sử dụng tri thức trong mọi lĩnh vực để phục vụ, phát triển con người một cách công bằng, an sinh và bền vững?...
Do đó, dù là một doanh nghiệp nhỏ, vừa, lớn; dù chỉ hoạt động trong phạm vi hẹp như địa phương, quốc gia nhưng cũng phải thực hiện toàn bộ các vấn đề trên bởi các hàng rào thuế quan giữa các nước được xoá bỏ và phải cạnh tranh với hàng hoá các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên địa phương, quốc gia của mình.
Vì thế, việc xây dựng Văn hoá doanh nghiệp Việt là yếu tố quan trọng hàng đầu, bức thiết và là nhiệm vụ chính trị hiện nay của doanh nhân. Trước xu thế đó, ngày 7.11. 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu tại lễ công bố Ngày Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam - 10/11 và phát động cuộc vận động “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam”.
Hội Kiều học được thành lập và chính thức hoạt động từ 3-11-2011, đánh dấu bước ngoặt lớn trong việc nghiên cứu và ứng dụng giá trị Truyện Kiều vào đời sống xã hội, góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy một xã hội học tập - một yếu tố căn bản để xây dựng Xã hội tri thức. Việc Hội Kiều học tổ chức Hội thảo: “Doanh nhân với Truyện Kiều & Truyện Kiều với doanh nhân” là một bước đi quan trọng, hợp xu thế thời đại để góp phần thực hiện Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam”. Đồng thời mở ra vấn đề nghiên cứu mới nhằm ứng dụng giá trị Truyện Kiều vào đời sống xã hội, cụ thể với vấn đề kinh doanh trong xã hội hiện nay là hoàn toàn khoa học. Điều đó có nghĩa là cần phải đánh giá và chỉ ra mối quan hệ giữa Truyện Kiều với việc kinh doanh và Doanh nhân có thể học hỏi, vận dụng giá trị Truyện Kiều như thế nào?
1. Truyện Kiều - như một đối tượng trực tiếp được khai thác kinh doanh.
+ Truyện Kiều, tác phẩm được xuất bản nhiều nhất: Truyện Kiều ra đời trở thành một tác phẩm được lưu truyền và ăn khách nhất. Năm 1866, ấn bản Truyện Kiều chữ Nôm (khắc gỗ) là bản Truyện Kiều cổ nhất được tìm thấy do Liễu Văn đường phát hành và tái bản 1871. Có thế thấy các nhà in thời cổ nổi tiếng như Thịnh Mỹ đường, Quan Văn đường, Phúc Văn đường, Quảng Thịnh đường, Bảo Hoa các, các nhà in ở Hà Nội, Sài Gòn... đều không thể không tham gia xuất bản Truyện Kiều. Điều đó có thể hiểu nhu cầu xuất bản Truyện Kiều quá lớn và ngược lại, Truyện Kiều đã góp phần làm nên thương hiệu của các nhà in đó. Ngày nay, hầu hết các nhà xuất bản trên toàn quốc và các nhà sách tư nhân đều đã tham dự việc xuất bản và phát hành Truyện Kiều. Không thể thống kê nổi một con số chính xác bởi việc đó là khó có thể, và nó nằm ngoài sức tưởng tượng, nhưng có thể khẳng định đó là siêu lợi nhuận ở thể loại truyện thơ có thể mang lại từ một tác phẩm.
+ Tranh vẽ chủ đề Kiều, nhân vật Truyện Kiều, câu đối Kiều được khai thác tối đa trên các vật dụng đời sống: trên nhiều loại hình nghệ thuật dân gian như tranh tứ bình, tranh Đông Hồ, tranh in trên gốm sứ với các vật dụng như bình phong, khảm trai, lọ bình, ấm chén, bát đĩa... Nhiều tranh dân gian, vật phẩm trở thành đồ cổ đắt giá của các nhà sưu tập.
+ Truyện Kiều, chủ đề ăn khách của nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, điện ảnh:  
Có lẽ xuất hiện sớm nhất trên sân khấu nghệ thuật do gánh hát Cải lương Châu Văn Tú (Năm Tú) trình diễn lần đầu tiên năm 1920 ở Mỹ Tho với vở Kim Vân Kiều 1 cùng các liên ca Kim Kiều hạnh ngộ, Viên Ngoại hàm oan, Kiều mộng Đạm Tiên, Từ Hải của của Trương Duy Toản soạn. Năm 1958 vở Kiều - Hoạn Thư (Hoạn Thư ghen) được Đoàn cải lương Hoa Mai dựng và diễn nhân lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du. Vở Thúy Kiều của Việt Dung và Sĩ Tiến được Đoàn chuông vàng ở Hà Nội trình diễn hơn 1.000 đêm. Vở Kiều của nhà hát cải lương Hà Nội công diễn ở Thụy Sĩ 12 đêm liền năm 1995. Các vở Kim Kiều tái hợp của Sĩ Tiến, vở Kiều tái hồi Kim Trọng là các vở diễn thành công của đoàn Cải lương Quyết Tiến (Bắc Thái) diễn trong những năm 1960. Năm 1993, Kiều lại tái sinh trên sân khấu thủ đô qua vở diễn Kiều của Nhà hát Cải lương Hà Nội (với sự hợp nhất của hai đoàn Cải lương nổi tiếng là Kim Phụng và Chuông Vàng), tác giả Việt Dung, đạo diễn NSND Ngọc Dư.
Về ca kịch bài chòi, có hai vở là Kiều - Từ Hải của tác giả Nguyễn Tường Nhẫn chuyển thể, và Ngàn thu vọng mãi của cố nhà thơ Lưu Trọng Lư. Cả hai vở đều do Đoàn ca kịch Liên khu 5 biểu diễn.
Sân khấu chèo vẫn còn lưu giữ được những băng hình trích đoạn như Tú Bà đánh Kiều diễn ở miền Bắc những năm 1950. Gần đây, năm 2015, vở Hoạn Thư ghen do nhà biên kịch Phương Văn soạn, được chuyển thể chèo  diễn ở chiếu chèo làng Chuông (Ninh Giang – Hải Dương) do Hội Kiều học đồng tổ chức.
Truyện Kiều cũng đã bước vào điện ảnh rất sớm. Bộ phim Kim Vân Kiều do hãng phim và chiếu bóng Đông Dương (Indochine films et cinémas) của Pháp quay tại Hà Nội và làm hậu kỳ ở Pháp. Diễn viên do Đoàn tuồng Quảng Lạc ở Hà Nội thực hiện. Chúng ta biết rằng, điện ảnh thế giới ra đời năm 1885, nhưng phim truyện trên thế giới cũng chỉ mới xuất hiện sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) Ngày 19-9-1924 phim Kim Vân Kiều được công chiếu buổi đầu tiên tại rạp Casino ở Sài Gòn.
Năm 2016, phim tài liệu “Trăm năm trong cõi Truyện Kiều” của Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn, do Hội Kiều học tổ chức xây dựng đã phát sóng toàn quốc.
Vở kịch Hình thể Nguyễn Du với Kiều do NSND Lan Hương biên kịch, đạo diễn vừa được Nhà hát Tuổi Trẻ phục dựng và lựa chọn tham gia Liên hoan quốc tế sân khấu thử nghiệm tại Hà Nội năm 2012.
Vở kịch “Kiều” do NSND Phạm Anh Tú làm đạo diễn, nhà văn Nguyễn Hiếu chuyển thể kịch bản, do Nhà hát Kịch Việt Nam dàn dựng sẽ thể nghiệm nhiều loại hình nghệ thuật mới công diễn tháng 3/2017.
Vở Hợp xướng Truyện Kiều dài 65 phút của nhạc sĩ Vũ Đình Ân được biểu diễn bởi dàn hợp xướng nhạc hàn lâm kết hợp với nhạc dân ca đã xuất hiện lần đầu trên sân khấu ca múa nhạc hiện đại Việt Nam năm 2009.
Kiều ca - tác phẩm minh hoạ âm nhạc của Phạm Duy đã rất thành công. Tạp chí "Xưa và Nay" và Hiệp hội UNESCO Hà Nội đã tổ chức tại Bảo tàng Cách mạng VN năm 2009, do chính Phạm Duy dẫn chuyện. Kiều ca đã được in đĩa CD và phát hành tại hải ngoại gây được tiếng vang lớn.
+ TK, điểm tựa cho thú chơi và loại hình kinh doanh mới.
Câu lạc bộ Café Kiều ở Vinh, Vườn Kiều và Đại lộ Kim Vân Kiều ở Đồng Nai của ông Phạm Văn Khoát thu hút nhiều lượt người đến thăm quan và sinh hoạt. Hoặc như Bài bói Kiều (được thiết kế dưới dạng 52 tấm thẻ thơ  Kiều giống như bộ tú lơ khơ với 52 quân) của ông Phạm Đan Quế chế tác đã được xuất bản năm 2012... Tết năm 2017, Công ty TNHH An Hảo đã đưa ra thị trường Bộ lịch Truyện Kiều đặc biệt gồm 365 tranh minh hoạ TK cùng thơ Kiều đã được đông đảo người tiêu dùng đón nhận.
Và còn nhiều hoạt động kinh doanh, sáng tạo nghệ thuật khác dựa trên Truyện Kiều mà chúng tôi không thể thống kê và mô tả hết ở đây.
Thống kê trên cho thấy sức ảnh hưởng Truyện Kiều đến mọi lĩnh vực cuộc sống từ xưa cho đến nay. Điều đó có ý nghĩa rằng, Truyện Kiều vẫn là một chủ đề nóng được toàn dân Việt quan tâm tạo nên một thị trường mở, đầy tiềm năng để các doanh nhân chủ động sáng tạo khai thác.
2. Nghiên cứu Truyện Kiều, thực hiện các tác phẩm chủ đề Kiều, Nguyễn Du như một chứng chỉ nghề nghiệp trường đời, làm nên tên tuổi nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ và thương hiệu Doanh Nghiệp.
+ Giới bình dân coi thơ Kiều là thước đo là người yêu thơ, sính thơ và sành thơ.
Trong TK, Khi Từ Hải và Kiều gặp gỡ nhau có đoạn:
Nàng rằng: “Người dạy quá lời,
Thân này còn dám xem ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng,
2188. Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?
Còn như vào trước ra sau,
           Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?”
Từ rằng: “Lời nói hữu tình,
2192. Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên quân.
Bình Nguyên quân tên Triệu Thắng, đời Chiến quốc, biết nhìn người, hào hiệp, nuôi đến ba ngàn thực khách. Câu thơ của Cao Thích nói về ông: "Chẳng biết gan mật hướng vào ai, Khiến người ta lại nhớ đến Bình Nguyên quân". Câu 2188. Kiều nói: "Biết đâu mà gửi càn tràng (gan ruột)... " là Kiều nói cái tứ thơ của Cao Thích mà bỏ lửng vế sau (Ngụ ý liệu có thể trông dựa vào Từ Hải và cũng có cái ý thử đo cái hiểu biết văn chương của Từ Hải). Từ Hải trả lời ở câu 2192: "Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên quân" tức là đọc nốt vế sau của câu thơ Cao Thích mà đáp lại, vừa thể hiện sự hiểu biết văn chương, vừa ví mình với Bình Nguyên quân, tức là Kiều có thể trông dựa, gửi gan ruột được.
Đó chính là cái thú ứng đối thơ, thú chơi chữ tao nhã của người xưa mà Nguyễn Du đã khéo léo phán ánh trong Truyện Kiều. Người Việt là một dân tôc yêu thơ, sành thơ và sính thơ. Bất kì người dân Việt nào dù mù chữ cũng thuộc dăm ba câu thơ Kiều. Và thơ Kiều trở thành những câu thơ điển hình để mọi người có thể tỏ ra là người yêu văn chương, thơ ca qua các sinh hoạt như lẩy Kiều, đố Kiều, đối Kiều và chua Kiều... không phân biệt kẻ bình dân với các bậc túc Nho.
+ Các nhà Nho, học giả, dịch giả, nhà văn, nhà thơ, các nhà khoa học là người Việt dường như ai cũng có thơ phú về Kiều, có các công trình lớn nhỏ hoặc các bài nghiên cứu về TK như một chứng chỉ nghề nghiệp trong trường đời. Những tên tuổi lớn có thể kể như: Kiều Oánh Mậu, Trương Vĩnh Ký, Chu Mạnh Trinh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm, Tản Đà, Đào Duy Anh, Nguyễn Bính, Tố Hữu... Và gần đây nhất là tác giả Phạm Đan Quế với 4 bằng kỷ lục nghiên cứu về Truyện Kiều.
+ Minh hoạ Truyện Kiều, Nguyễn Du làm nên tên tuổi các hoạ sĩ, nhà điêu khắc...
Tranh minh hoạ Truyện Kiều (tranh tác phẩm, tranh minh hoạ, tranh dân gian) nhiều thể loại được giới hoạ sĩ, các nhà điêu khắc khai thác tối đa. Có nhiều tranh dân gian, nhiều tranh quý hiếm khuyết danh (do không tìm được tác giả). Nhiều tranh minh hoạ đã làm nên tên tuổi các hoạ sĩ như Tạ Thúc Bình, Mạnh Quỳnh, Lê Lam, Tú Duyên, Mai Hoa, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ, Lưu Văn Sìn, Nguyễn Đỗ Cung... Đặc biệt tranh sơn dầu khổ lớn “Chàng Vương quen mặt ra chào / Hai kiều e lệ nép vào dưới hoa” của họa sĩ Lê Chánh được trưng bày ở phòng khách Dinh Độc Lập, nay là Hội trường Thống nhất Tp. HCM. Độc đáo hơn cả là bộ tranh lụa về Kiều được ra mắt năm 2011 của họa sĩ Ngọc Mai. Bà đã mất 12 năm để hoàn thành 28 bức tranh và đã xuất bản thành sách Tranh lụa Kiều (NXB Văn học).
Tượng Nguyễn Du đặt tại Trung tâm lưu niệm Nguyễn Du tại Tiên Điền, Hà Tĩnh đã trở thành hình ảnh kinh điển trong tâm trí mọi người trong và ngoài nước và đã được đưa vào con tem dịp kỉ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du của nhà điêu khắc Lê Đình Bảo.
Tem về Nguyễn Du & Truyện Kiều cũng đã được Bưu chính Việt Nam phát hành vào năm 1965. Bộ tem đầu tiên là bộ tem Kỷ niệm 200 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du do hoạ sĩ Nguyễn Hiệp thiết kế, in tại nhà in Tiến Bộ, gồm 4 mẫu: 1 – Sông Lam, núi Hồng Lĩnh; 2- Khu lưu niệm Nguyễn Du; 3- Cảo thơm trước đèn; 4 – Kiều báo ân, báo oán.
Đến năm 2015, Quyết định bổ sung bộ tem “Kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du (1765 - 1820)” gồm 1 mẫu tem vào Chương trình phát hành tem bưu chính năm 2015 đã được Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng ký ban hành ngày 21/7/2014. Quyết định nêu trên được Bộ TT&TT ban hành trên cơ sở xem xét đề xuất của Hội Kiều học Việt Nam. Hội Kiều học Việt Nam là đơn vị tư vấn (tôi - Trần Đình Tuấn là tư vấn chính cho nội dung) cho Bộ tem “Kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du (1765 - 1820)” phát hành 05/12/2015 gồm 01 mẫu tem và 01 blốc do hoạ sỹ Nguyễn Du (Tổng công ty Bưu điện Việt Nam) thiết kế với khuôn khổ tem 32 x 43 mm, blốc 90 x 90 mm.
+ Nghiên cứu Truyện Kiều, thực hiện các tác phẩm chủ đề Kiều thúc đẩy thương hiệu doanh nghiệp.
Các tổ chức xuất bản các nhà nước và tư nhân, các đoàn nghệ thuật biểu diễn, công ty sản xuất chương trình, các tổ chức đấu giá nghệ thuật ... rất chú trọng thực hiện các chương trình kinh doanh hoặc tổ chức sự kiện liên quan đến Truyện Kiều vì nó dường như đảm bảo chắc chắn lợi nhuận và là cơ hội quảng bá thương hiệu tốt.
3. Lẩy Kiều thường được các chính khách sử dụng để biểu đạt nỗi lòng, trách nhiệm hay thông điệp ngoại giao. Lẩy kiều đầy đủ tính năng của Slogan, Motto - một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp, giúp các công ty củng cố, định vị thương hiệu và thể hiện rõ sự khác biệt.
Vì mỗi câu thơ Kiều có sức khả năng biểu đạt trọn vẹn một bối cảnh, một tâm trạng dưới dạng câu hoàn chỉnh nên nó có khả năng độc lập ngoài ngữ cảnh và hoà nhập vào bối cảnh mới. Do tính năng đó các chính khách thường lẩy Kiều nhằm gửi gắm nỗi lòng hay một thông điệp ngoại giao gây thiện cảm với hàng triệu người Việt.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lẩy Kiều nhiều nhất. Đến ngay trong Di chúc thiêng liêng, Bác Hồ căn dặn đồng chí, đồng bào: Còn non, còn nước, còn người/ Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay. Năm 2011, ông Nguyễn Phú Trọng kết thúc nhiệm kỳ Chủ tịch Quốc hội. Sau khi nhận bó hoa từ tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, ông Nguyễn Phú Trọng đã nán lại trên diễn đàn ít phút để chia sẻ cảm giác của mình 4 năm về trước, vào một hoàn cảnh tương tự, tức ngày ông chính thức nhận trọng trách Chủ tịch Quốc hội (năm 2017). Ông nhắc lại chuyện ông đã lẩy hai câu Kiều vào thời điểm đó là "Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn / Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay". Đó cũng là lời chia sẻ của vị nguyên Chủ tịch Quốc hội về trách nhiệm lớn lao trước đất nước, trước nhân dân mà ông phải đón nhận khi đảm đương vị trí quan trọng vào thời điểm đó.
Chính trị gia Mỹ cũng có truyền thống lẩy Kiều trong ngoại giao với Việt Nam.
Năm 1995 khi Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước, gác lại quá khứ và mở ra một chương mới trong lịch sử hai nước. Tháng 11/2000, chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam trên cương vị Tổng thống Mỹ, ông Bill Clinton cũng đã lẩy Kiều trong tiệc chiêu đãi trọng thể do Chủ tịch nước Trần Đức Lương chủ trì: “Sen tàn cúc lại nở hoa / Sầu dài ngày ngắn, Đông đà sang Xuân” để chuyển tải thông điệp về phát triển tất yếu quan hệ Việt - Mỹ: Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai tươi sáng mà cả hai nước đều có trách nhiệm xây dựng.
Ông Joe Biden, Phó Tổng thống Mỹ, trong cuối phần phát biểu tại buổi tiệc tiếp ông TBT Nguyễn Phú Trọng ngày 7.7.2015, cũng đã Lẩy 2 câu Kiều: “Trời còn để có hôm nay / Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời” nhằm bày tỏ hy vọng vào tương lai tươi sáng của quan hệ song phương sau một giai đoạn lịch sử khó khăn.
Obama - Tổng thống Mỹ thăm Việt Nam tháng 5/2016, ông lẩy Kiều như một cam kết lòng tin trước hàng ngàn người ở Hà Nội: "Rằng trăm năm cũng từ đây / Của tin gọi một chút này làm ghi”.
Bên cạnh xu hướng các chính khách lẩy Kiều, các văn nghệ sĩ cũng thường đưa câu Kiều có giá trị như một slogan cho thông điệp trang Web cá nhân của mình.
Thực tế hiện nay chưa thấy có Slogan, Motto nổi tiếng của doanh nghiệp nào áp dụng các hình thức lẩy Kiều hoặc khai thác ý tưởng từ Truyện Kiều. Có lẽ, các doanh nhân chưa ý thức được mối liên hệ thơ Kiều với cấu trúc các Slogan, Motto, vì vậy vấn đề này cũng là nhiệm vụ của toạ đàm cần làm rõ.
Ở đây, tôi có thể đơn cử một vị dụ có thể khai thác Slogan hay Motto từ thơ Kiều. Trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp tự nhiên, tuyệt sắc, Nguyễn Du thường dùng hai màu sắc “lục – hồng” để nói về vẻ đẹp con gái, phụ nữ nói riêng hoặc của tuổi trẻ nói chung. Điều đó có nghĩa là biểu tượng “lục – hồng” là cái đẹp kinh điển đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt được Nguyễn Du phản ánh cô đọng lại mà thôi. Có rất nhiều câu như: Câu 26: Hoa ghen thua thắm (đỏ, hồng), liễu hờn kém xanh; Câu 90: Nào người tiếc lục tham hồng là ai; Câu 1218: Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng; Câu 1305: Mụ càng tô lục chuốt hồng...
Các công ty mỹ phẩm, làm đẹp... đều có thể lựa chọn các mẫu câu trên đây để sử dụng cho Slogan, Motto ở dạng nguyên bản câu thơ hay sửa đổi như: Hoa ghen thua thắm (đỏ, hồng), liễu hờn kém xanh hoặc sửa đổi như: Ngày ngày tô lục chuốt hồng; Sáng tô lục, chiều chuốt hồng...
4. Khai thác ý tưởng từ Truyện Kiều, vận dung giá trị Truyện Kiều
+ Sơ lược giá trị Truyện Kiều
Nói đến giá trị của Truyện Kiều, không thể không nhắc đến câu nói nổi tiếng của Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn...”. Ông cho rằng: “Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, Truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều là cái « văn tự » của giống Việt Nam ta đã «trước bạ» với non sông đất nước này... Đấng quốc sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên Điền ta vậy. Thiên văn khế ấy là gì? Là quyển Truyện Kiều ta vậy.
Như vậy, Truyện Kiều kết tinh cái đẹp Việt (quốc hoa), mang đậm đà bản sắc dân tộc (quốc tuý), phản ánh tinh thần, sức sống của dân tộc (quốc hồn)... Ngày nay, nhiều người coi Truyện Kiều là cuốn kinh của tình thương, là kinh thánh của tâm hồn.
Thực tế, Truyện Kiều cũng đã bước vào vũ đài chính trị như là tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam. Năm 1968 sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, nhân sự kiện phía địch tìm thấy một cuốn Truyện Kiều cũ kỹ và xơ xác trong hành trang ra trận ở túi áo của tử thi một chiến sỹ trẻ của ta[1], tạp chí The Washingtonian của Mỹ số tháng 4 có đăng bài viết về Truyện Kiều dài 2 trang với dòng tít hấp dẫn “Một tài liệu ly kỳ vừa bắt được tiết lộ tinh thần của địch”. Trong bài viết có hình minh họa Tổng thống Johnson với lời chú thích “Giá như Tổng thống Johnson đã đọc Truyện Kiều thì chắc đã không phải lâm vào tình trạng rắc rối như ngày nay”.
Dạy Truyện Kiều ở Đại học De Anza bang California, Giáo sư John Swensson (thời chiến tranh là Đại tá Mỹ đóng quân ở Củ Chi năm 1966, ở Sài Gòn năm 1968, 1969) nói: “Muốn tìm hiểu con người Việt Nam thì hãy tìm hiểu Truyện Kiều. Có hiểu câu chuyện về sự chịu đựng đằng đẵng 15 năm trời, chịu đủ mọi nỗi đau của Thúy Kiều thì mới hiểu được sự kiên trì cùng sức chịu đựng ghê gớm của người Việt Nam, mới hiểu được tại sao du kích Củ Chi lại có thể đào được hệ thống địa đạo Củ Chi, sống ở dưới đó để rồi cuối cùng vươn lên giành thắng lợi. Tôi thấy ở Truyện Kiều một giá trị để hoàn thiện con người”.
Trong khi đó, Kuroda Yoshiko là nữ thi sĩ sinh tại Kyoto, Nhật bản dịch TK sang tiếng Nhật, bà cho rằng cốt lõi tốt đẹp của tinh thần Việt Nam, và cũng là của Nhật Bản được xây dựng trên những “Lời thề” và đó cũng là lý do bà chọn đặt tên cho Lời bạt cho bản dịch “Truyện Thúy Kiều” là “Thế giới của lời thề”. Bà xem xét “lời hứa” của Thúy Kiều với nhiều nhân vật khác nhau trong tác phẩm và xem việc không thể giữ lời thề nguyền đã chỉ phối như thế nào đến suy nghĩ, hành động, cuộc đời của từng nhân vật trong câu chuyện.
Chúng ta biết rằng, lời hứa, lời thề là nguyên tắc chi phối mọi quan hệ xã hội trong Truyện Kiều. Vì thế, lời hứa lời thề trở thành căn cứ cho luật pháp được thực thi: “Thề sao thì lại cứa sao gia hình”. Điều mà vẫn rất giá trị trong cuộc sông hiện đại hôm nay, đặc biệt với doanh nghiệp và doanh nhân.
Vài nét nhận xét trên cho chúng ta thấy những giá trị cốt lõi tinh thần mà chúng ta đã có qua giá trị của Truyện Kiều. Như vậy, Truyện Kiều có thể được coi như một cẩm nang văn hoá Việt để doanh nhân có thể vận dụng, xây dựng Văn hoá doanh nghiệp Việt cho mình. Mặt khác, cộng đồng hàng triệu người Việt yêu mến Truyện Kiều, Nguyễn Du một lần nữa trở thành lực lượng ủng hộ cho các doanh nghiệp biết khai thác và vận dụng giá trị Truyện Kiều.
+ Khai thác ý tưởng từ Truyện Kiều
Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đơn thuần mà đã trở thành một “công cụ” để phục vụ cuộc sống. Vì vậy, việc làm sáng tỏ giá trị Truyện Kiều là công việc của quá khứ, hiện tại, tương lai và không có hồi kết.
Chúng tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế, sinh động sau:
Lấy ý tưởng từ Truyện Kiều, khai thác ứng dụng giá trị Truyện Kiều vào cuộc sống một cách rõ ràng nhất phải kể đến việc thiết kế xây dựng chùa Quán Sứ (Hà Nội) của cố Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn (1912-1990). Ông có nhiều công trình kiến trúc được lấy ý tưởng từ Truyện Kiều. Những công trình cụ thể như: Phòng thu thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam ở phố Quán Sứ; nhà giải khát công viên Thống Nhất và đặc biệt là chùa Quán Sứ.
Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15. Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt.
KTS Nguyễn Ngọc Ngoạn tâm sự: “Chùa thấp, dáng dấp, các chùa thông thường, cửu phẩm liên đài vươn lên cao... Chúng tôi nghiêng đầu, ngẹo cổ ngắm... Chúng tôi đến thực địa, đi bên này đường, sang bên kia phố của phần liên đài cao, cao quá, tầm nhìn quá gần lại còn làm chướng mắt chùa. Bỏ đi, chùa thấp, bình thường... không được. Làm ra sao? Chúng tôi băn khoăn, suy nghĩ...
"Chùa đâu trông thấy nẻo xa..." Tôi nghĩ tới câu thơ đó một cách ngẫu nhiên và đặt vấn đề phải làm sao cho trông thấy chùa từ đầu phố... Đưa chùa lên cao: lênh khênh, mất tỷ lệ, vẽ đi vẽ lại không đạt... "Sẵn Quan Âm Các vườn ta", không hiểu sao chữ "Các" nhắc tôi đến "Khuê Văn Các" ở Văn Miếu. Chúng tôi hình dung ngôi chùa hai tầng...
Táo bạo! Lạ kiểu! Quái gở! Đó là những "tiếng bấc, tiếng chì", chúng tôi kiên trì chịu đựng. Như một gáo nước lạnh dội vào: quan điểm của tôn giáo buộc Phật phải "tọa liền với đất...". Ở đây, chúng tôi vấp phải tất cả những cái gì đã ăn sâu vào con người, đã quen thuộc với các ngôi chùa thấp lè tè với chín, mười một gian chi đó... với ấn tượng hai tầng là các nhà Tây mới được nhập cảng...
Tôi chùng tay... Kiến trúc sư Nguyễn Xuân Tùng động viên "phải kiên trì" và chúng tôi mải miết tiếp tục nghiên cứu... Cuối cùng phương án được chấp nhận. Những ấn tượng ban đầu hình như tiêu tan hết và chùa Quán Sứ hai tầng đã được xây dựng... Chúng tôi những người thiết kế - tự nhủ rằng không biết có quá đáng không - đã dám nghĩ, dám làm, đã viết một dòng nhỏ trong trang sử kiến trúc tôn giáo Việt Nam.
Đánh giá đúng mức chùa Quán Sứ phải đặt chùa trong bối cảnh lịch sử của thời đại, trong giai đoạn bao trùm bởi một nền văn hóa nô dịch, trong giai đoạn mà số kiến trúc sư đầu tiên chỉ là đếm trên đầu ngón tay. Còn nó chưa hoàn toàn Việt Nam, nó còn... và còn cái này, cái khác... Thì đó lại là chuyện khác”.
Thay lời kết!
Giá trị Truyện Kiều có thể được nhận định cụ thể, sâu sắc hơn ở từng lĩnh vực cuộc sống tuỳ thuộc vào sự tìm hiểu của các doanh nhân trong từng lĩnh vực đặc thù của doanh nghiệp. Trong bối cảnh các doanh nghiệp cần khẳng định Văn hoá doanh nghiệp Việt Nam thì việc tìm ý tưởng sang tạo từ Truyện Kiều, vận dụng các giá trị Truyện Kiều là con đường ngắn nhất, đúng đắn nhất và có thể chinh phục hàng triệu người Việt vốn yêu mến Truyện Kiều, yêu mến Nguyễn Du cũng như tạo nên sự khác biệt, tạo nên giá trị Việt để có thể khẳng định mình trong thế giới phẳng, trong xu hướng kinh tế toàn cầu hoá và có thể xây dựng Xã hội tri thức.
Chúng tôi hy vọng rằng, Hội Kiều học sẽ là đơn vị tư vấn tốt cho các doanh nhân muốn xây dựng Văn hoá doanh nghiệp Việt Nam từ những giá trị Truyện Kiều.


Tài liệu tham khảo:
- Truyện Kiều, Khảo – Chú – Bình, NXB Lao Động, TS Phan Tử Phùng chủ biên, Phan Văn Các, Thế Anh, Nguyễn Khắc Bảo, Trần Đình Tuấn.
- Truyện Kiều bản UNESCO – Nôm, Quốc ngữ đối chiếu. NXB Lao Động, TS Phan Tử Phùng chủ biên, Phan Văn Các, Thế Anh, Nguyễn Khắc Bảo, Trần Đình Tuấn.
- Tìm hiểu kiến trúc qua Truyện Kiều, KTS Nguyễn Ngọc Ngoạn, Hội Kiến trúc sư xuất bản.
- Và một số bài báo, tạp chí khác....




[1]. “Dẫu súng đạn nặng đường ra hoả tuyến / Đi đường dài, em giữ Truyện Kiều theo” (Gửi Kiều cho em. Thơ Chế Lan Viên)      

THƯ NGỎ

Kính thưa quý vị!      Nguyễn Du (1765-1820) là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông ...