LTS: Xin tiếp tục giới thiệu tham luận tại Hội thảo: “Doanh nhân với Truyện Kiều & Truyện Kiều
với doanh nhân”. Bài 2
|
Tác giả trình bày tham luận tại Hội thảo. Ảnh TVS |
TRẦN ĐÌNH TUẤN
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với nền kinh tế thị
trường trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hoá và thế giới đang hướng đến Xã hội tri thức (Báo cáo Thế giới 2005 của
UNESCO đã lấy nhan đề là Hướng tới các Xã
hội tri thức). Doanh nghiệp Việt Nam buộc phải khẳng định mình trước các vấn
đề lớn: Anh là ai (quốc gia, dân tộc)? Có trách nhiệm gì với xã hội? Sứ mệnh của
anh đóng góp được gì cho lợi ích cộng đồng. Và anh có thể sử dụng tri thức trong mọi lĩnh vực để phục
vụ, phát triển con người một cách công bằng, an sinh và bền vững?...
Do đó, dù là một
doanh nghiệp nhỏ, vừa, lớn; dù chỉ hoạt động trong phạm vi hẹp như địa phương, quốc
gia nhưng cũng phải thực hiện toàn bộ các vấn đề trên bởi các hàng rào thuế
quan giữa các nước được xoá bỏ và phải cạnh tranh với hàng hoá các doanh nghiệp
nước ngoài ngay trên địa phương, quốc gia của mình.
Vì thế, việc xây
dựng Văn hoá doanh nghiệp Việt là yếu
tố quan trọng hàng đầu, bức thiết và là nhiệm vụ chính trị hiện nay của doanh
nhân. Trước xu thế đó, ngày 7.11.
2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu tại lễ công bố Ngày Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam -
10/11 và phát động cuộc vận động “Xây dựng
văn hóa doanh nghiệp Việt Nam”.
Hội Kiều học được thành lập và chính thức hoạt động từ
3-11-2011, đánh dấu bước ngoặt lớn trong việc nghiên cứu và ứng dụng giá trị Truyện Kiều vào đời sống xã hội, góp phần
nâng cao dân trí, thúc đẩy một xã hội học tập - một yếu tố căn bản để xây dựng Xã hội tri thức. Việc Hội Kiều học tổ chức
Hội thảo: “Doanh nhân với Truyện Kiều
& Truyện Kiều với doanh nhân” là một bước đi quan trọng, hợp xu thế thời
đại để góp phần thực hiện “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam”.
Đồng thời mở ra vấn đề nghiên cứu mới nhằm ứng dụng giá trị Truyện Kiều vào đời sống xã hội, cụ thể
với vấn đề kinh doanh trong xã hội hiện nay là hoàn toàn khoa học. Điều đó có
nghĩa là cần phải đánh giá và chỉ ra mối quan hệ giữa Truyện Kiều với việc kinh doanh và Doanh nhân có thể học hỏi, vận dụng
giá trị Truyện Kiều như thế nào?
1. Truyện Kiều - như một đối tượng trực tiếp
được khai thác kinh doanh.
+ Truyện Kiều, tác phẩm được xuất bản nhiều
nhất: Truyện Kiều ra đời trở
thành một tác phẩm được lưu truyền và ăn khách nhất. Năm 1866, ấn bản Truyện Kiều chữ Nôm (khắc gỗ) là bản Truyện Kiều cổ nhất được tìm thấy do Liễu
Văn đường phát hành và tái bản 1871. Có thế thấy các nhà in thời cổ nổi tiếng
như Thịnh Mỹ đường, Quan Văn đường, Phúc Văn đường, Quảng Thịnh đường, Bảo Hoa
các, các nhà in ở Hà Nội, Sài Gòn... đều không thể không tham gia xuất bản Truyện Kiều. Điều đó có thể hiểu nhu cầu
xuất bản Truyện Kiều quá lớn và ngược
lại, Truyện Kiều đã góp phần làm nên
thương hiệu của các nhà in đó. Ngày nay, hầu hết các nhà xuất bản trên toàn quốc
và các nhà sách tư nhân đều đã tham dự việc xuất bản và phát hành Truyện Kiều. Không thể thống kê nổi một
con số chính xác bởi việc đó là khó có thể, và nó nằm ngoài sức tưởng tượng,
nhưng có thể khẳng định đó là siêu lợi nhuận ở thể loại truyện thơ có thể mang
lại từ một tác phẩm.
+ Tranh vẽ chủ đề Kiều, nhân vật Truyện Kiều, câu đối Kiều được khai thác tối đa trên các vật dụng đời sống: trên nhiều loại hình nghệ thuật dân gian như
tranh tứ bình, tranh Đông Hồ, tranh in trên gốm sứ với các vật dụng như bình
phong, khảm trai, lọ bình, ấm chén, bát đĩa... Nhiều tranh dân gian, vật phẩm
trở thành đồ cổ đắt giá của các nhà sưu tập.
+ Truyện Kiều, chủ đề ăn khách của nghệ
thuật sân khấu, âm nhạc, điện ảnh:
Có lẽ xuất hiện sớm nhất trên sân khấu nghệ thuật do gánh
hát Cải lương Châu Văn Tú (Năm Tú) trình diễn lần đầu tiên năm 1920 ở Mỹ Tho với
vở Kim Vân Kiều 1 cùng các liên ca Kim Kiều hạnh ngộ, Viên Ngoại hàm oan, Kiều
mộng Đạm Tiên, Từ Hải của của Trương Duy Toản soạn. Năm 1958 vở Kiều - Hoạn Thư (Hoạn Thư ghen) được
Đoàn cải lương Hoa Mai dựng và diễn nhân lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn
Du. Vở Thúy Kiều của Việt Dung và Sĩ
Tiến được Đoàn chuông vàng ở Hà Nội trình diễn hơn 1.000 đêm. Vở Kiều của nhà hát cải lương Hà Nội công
diễn ở Thụy Sĩ 12 đêm liền năm 1995. Các vở Kim
Kiều tái hợp của Sĩ Tiến, vở Kiều tái
hồi Kim Trọng là các vở diễn thành công của đoàn Cải lương Quyết Tiến (Bắc
Thái) diễn trong những năm 1960. Năm 1993, Kiều lại tái sinh trên sân khấu thủ
đô qua vở diễn Kiều của Nhà hát Cải lương Hà Nội (với sự hợp nhất của hai đoàn
Cải lương nổi tiếng là Kim Phụng và Chuông Vàng), tác giả Việt Dung, đạo diễn
NSND Ngọc Dư.
Về ca kịch bài chòi, có hai vở là Kiều - Từ Hải của tác giả Nguyễn Tường Nhẫn chuyển thể, và Ngàn thu vọng mãi của cố nhà thơ Lưu Trọng
Lư. Cả hai vở đều do Đoàn ca kịch Liên khu 5 biểu diễn.
Sân khấu chèo vẫn còn lưu giữ được những băng hình trích đoạn
như Tú Bà đánh Kiều diễn ở miền Bắc
những năm 1950. Gần đây, năm 2015, vở Hoạn Thư ghen do nhà biên kịch Phương Văn
soạn, được chuyển thể chèo diễn ở chiếu
chèo làng Chuông (Ninh Giang – Hải Dương) do Hội Kiều học đồng tổ chức.
Truyện Kiều cũng
đã bước vào điện ảnh rất sớm. Bộ phim Kim
Vân Kiều do hãng phim và chiếu bóng Đông Dương (Indochine films et cinémas)
của Pháp quay tại Hà Nội và làm hậu kỳ ở Pháp. Diễn viên do Đoàn tuồng Quảng Lạc
ở Hà Nội thực hiện. Chúng ta biết rằng, điện ảnh thế giới ra đời năm 1885,
nhưng phim truyện trên thế giới cũng chỉ mới xuất hiện sau chiến tranh thế giới
lần thứ nhất (1914-1918) Ngày 19-9-1924 phim Kim Vân Kiều được công chiếu buổi
đầu tiên tại rạp Casino ở Sài Gòn.
Năm 2016, phim tài liệu “Trăm năm trong cõi Truyện Kiều” của Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn, do Hội
Kiều học tổ chức xây dựng đã phát sóng toàn quốc.
Vở kịch Hình thể Nguyễn
Du với Kiều do NSND Lan Hương biên kịch, đạo diễn vừa được Nhà hát Tuổi Trẻ
phục dựng và lựa chọn tham gia Liên hoan quốc tế sân khấu thử nghiệm tại Hà Nội
năm 2012.
Vở kịch “Kiều” do
NSND Phạm Anh Tú làm đạo diễn, nhà văn Nguyễn Hiếu chuyển thể kịch bản, do Nhà
hát Kịch Việt Nam dàn dựng sẽ thể nghiệm nhiều loại hình nghệ thuật mới công diễn
tháng 3/2017.
Vở Hợp xướng Truyện
Kiều dài 65 phút của nhạc sĩ Vũ Đình Ân được biểu diễn bởi dàn hợp xướng nhạc
hàn lâm kết hợp với nhạc dân ca đã xuất hiện lần đầu trên sân khấu ca múa nhạc
hiện đại Việt Nam năm 2009.
Kiều ca - tác phẩm
minh hoạ âm nhạc của Phạm Duy đã rất thành công. Tạp chí "Xưa và Nay"
và Hiệp hội UNESCO Hà Nội đã tổ chức tại Bảo tàng Cách mạng VN năm 2009, do
chính Phạm Duy dẫn chuyện. Kiều ca đã được in đĩa CD và phát hành tại hải ngoại
gây được tiếng vang lớn.
+ TK, điểm tựa cho
thú chơi và loại hình kinh doanh mới.
Câu lạc bộ Café Kiều ở Vinh, Vườn Kiều và Đại lộ Kim Vân Kiều
ở Đồng Nai của ông Phạm Văn Khoát thu hút nhiều lượt người đến thăm quan và
sinh hoạt. Hoặc như Bài bói Kiều (được thiết kế dưới dạng 52 tấm thẻ thơ Kiều giống như bộ tú lơ khơ với 52 quân) của
ông Phạm Đan Quế chế tác đã được xuất bản năm 2012... Tết năm 2017, Công ty
TNHH An Hảo đã đưa ra thị trường Bộ lịch
Truyện Kiều đặc biệt gồm 365 tranh minh hoạ TK cùng thơ Kiều đã được đông đảo
người tiêu dùng đón nhận.
Và còn nhiều hoạt động kinh doanh, sáng tạo nghệ thuật khác dựa trên
Truyện Kiều mà chúng tôi không thể thống kê và mô tả hết ở đây.
Thống kê trên cho thấy sức
ảnh hưởng Truyện Kiều đến mọi lĩnh vực cuộc sống từ xưa cho đến nay. Điều
đó có ý nghĩa rằng, Truyện Kiều
vẫn là một chủ đề nóng được toàn dân Việt quan tâm tạo nên một thị trường mở, đầy
tiềm năng để các doanh nhân chủ động sáng tạo khai thác.
2. Nghiên cứu Truyện Kiều, thực hiện các tác phẩm chủ
đề Kiều, Nguyễn Du như một chứng chỉ nghề nghiệp trường đời, làm nên tên tuổi
nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ và thương hiệu Doanh Nghiệp.
+ Giới bình dân coi thơ Kiều là thước đo là người
yêu thơ, sính thơ và sành thơ.
Trong TK, Khi Từ Hải và Kiều gặp gỡ nhau có đoạn:
Nàng rằng: “Người dạy quá lời,
Thân này còn dám xem ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng,
2188. Biết đâu mà gởi can tràng
vào đâu?
Còn như vào trước ra sau,
Ai cho kén chọn vàng
thau tại mình?”
Từ rằng: “Lời nói hữu tình,
2192. Khiến người lại nhớ câu Bình
Nguyên quân.
Bình Nguyên quân tên Triệu Thắng, đời
Chiến quốc, biết nhìn người, hào hiệp, nuôi đến ba ngàn thực khách. Câu thơ của
Cao Thích nói về ông: "Chẳng biết
gan mật hướng vào ai, Khiến người ta lại nhớ đến Bình Nguyên quân".
Câu 2188. Kiều nói: "Biết đâu mà gửi
càn tràng (gan ruột)... " là Kiều nói cái tứ thơ của Cao Thích mà bỏ lửng
vế sau (Ngụ ý liệu có thể trông dựa vào Từ Hải và cũng có cái ý thử đo cái hiểu biết văn chương của Từ Hải). Từ Hải
trả lời ở câu 2192: "Khiến người lại
nhớ câu Bình Nguyên quân" tức là đọc nốt vế sau của câu thơ Cao Thích
mà đáp lại, vừa thể hiện sự hiểu biết văn chương, vừa ví mình với Bình Nguyên
quân, tức là Kiều có thể trông dựa, gửi gan ruột được.
Đó chính là cái thú ứng đối thơ, thú
chơi chữ tao nhã của người xưa mà Nguyễn Du đã khéo léo phán ánh trong Truyện Kiều. Người Việt là một dân tôc
yêu thơ, sành thơ và sính thơ. Bất kì người dân Việt nào dù mù chữ cũng thuộc
dăm ba câu thơ Kiều. Và thơ Kiều trở
thành những câu thơ điển hình để mọi người có thể tỏ ra là người yêu văn
chương, thơ ca qua các sinh hoạt như lẩy Kiều, đố Kiều, đối Kiều và chua Kiều...
không phân biệt kẻ bình dân với các bậc túc Nho.
+ Các nhà Nho, học giả, dịch giả, nhà văn,
nhà thơ, các nhà khoa học là người Việt dường như ai cũng có thơ phú về Kiều,
có các công trình lớn nhỏ hoặc các bài nghiên cứu về TK như một chứng chỉ nghề
nghiệp trong trường đời. Những tên tuổi lớn có thể kể như: Kiều Oánh Mậu,
Trương Vĩnh Ký, Chu Mạnh Trinh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Dương
Quảng Hàm, Tản Đà, Đào Duy Anh, Nguyễn Bính, Tố Hữu... Và gần đây nhất là tác
giả Phạm Đan Quế với 4 bằng kỷ lục nghiên cứu về Truyện Kiều.
+ Minh
hoạ Truyện Kiều, Nguyễn Du làm nên
tên tuổi các hoạ sĩ, nhà điêu khắc...
Tranh minh hoạ Truyện
Kiều (tranh tác phẩm,
tranh minh hoạ, tranh dân gian) nhiều thể loại được giới hoạ sĩ, các nhà điêu
khắc khai thác tối đa. Có nhiều tranh dân gian, nhiều tranh quý hiếm khuyết
danh (do không tìm được tác giả). Nhiều tranh minh hoạ đã làm nên tên tuổi các
hoạ sĩ như Tạ Thúc Bình, Mạnh Quỳnh, Lê Lam, Tú Duyên, Mai Hoa, Nguyễn Tư Nghiêm,
Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ, Lưu Văn
Sìn, Nguyễn Đỗ Cung... Đặc biệt tranh sơn dầu khổ lớn “Chàng Vương quen mặt ra
chào / Hai kiều e lệ nép vào dưới hoa” của họa sĩ Lê Chánh được trưng bày ở
phòng khách Dinh Độc Lập, nay là Hội trường Thống nhất Tp. HCM. Độc đáo hơn cả
là bộ tranh lụa về Kiều được ra mắt năm 2011 của họa sĩ Ngọc Mai. Bà đã
mất 12 năm để hoàn thành 28 bức tranh và đã xuất bản thành sách Tranh lụa Kiều (NXB Văn học).
Tượng
Nguyễn Du đặt tại Trung tâm lưu niệm Nguyễn Du tại Tiên Điền, Hà Tĩnh đã trở
thành hình ảnh kinh điển trong tâm trí mọi người trong và ngoài nước và đã được
đưa vào con tem dịp kỉ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du của nhà điêu khắc Lê
Đình Bảo.
Tem về Nguyễn Du & Truyện Kiều cũng đã được Bưu chính Việt
Nam phát hành vào năm 1965. Bộ tem đầu tiên là bộ tem Kỷ niệm 200 năm sinh Đại
thi hào Nguyễn Du do hoạ sĩ Nguyễn Hiệp thiết kế, in tại nhà in Tiến Bộ, gồm 4
mẫu: 1 – Sông Lam, núi Hồng Lĩnh; 2- Khu lưu niệm Nguyễn Du; 3- Cảo thơm trước
đèn; 4 – Kiều báo ân, báo oán.
Đến năm 2015, Quyết định bổ sung bộ
tem “Kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du (1765 - 1820)” gồm 1 mẫu tem vào Chương
trình phát hành tem bưu chính năm 2015 đã được Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn
Thành Hưng ký ban hành ngày 21/7/2014. Quyết định
nêu trên được Bộ TT&TT ban hành trên cơ sở xem xét đề xuất của Hội Kiều học
Việt Nam. Hội Kiều học Việt Nam là đơn vị tư vấn (tôi - Trần Đình Tuấn là tư vấn
chính cho nội dung) cho Bộ tem “Kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du (1765 - 1820)” phát
hành 05/12/2015 gồm 01 mẫu tem và 01 blốc do hoạ sỹ Nguyễn Du (Tổng công ty Bưu
điện Việt Nam) thiết kế với khuôn khổ tem 32 x 43 mm, blốc 90 x 90 mm.
+ Nghiên
cứu Truyện Kiều, thực hiện các tác phẩm
chủ đề Kiều thúc đẩy thương hiệu doanh nghiệp.
Các tổ chức xuất bản các nhà nước và
tư nhân, các đoàn nghệ thuật biểu diễn, công ty sản xuất chương trình, các tổ
chức đấu giá nghệ thuật ... rất chú trọng thực hiện các chương trình kinh doanh
hoặc tổ chức sự kiện liên quan đến Truyện
Kiều vì nó dường như đảm bảo chắc chắn lợi nhuận và là cơ hội quảng bá
thương hiệu tốt.
3.
Lẩy Kiều thường được các chính khách sử dụng để biểu đạt nỗi lòng, trách nhiệm hay
thông điệp ngoại giao. Lẩy kiều đầy đủ tính năng của Slogan, Motto - một loại
tài sản vô hình của doanh nghiệp, giúp các công ty củng cố, định vị thương hiệu
và thể hiện rõ sự khác biệt.
Vì mỗi câu thơ Kiều có sức khả năng biểu đạt trọn vẹn một bối cảnh,
một tâm trạng dưới dạng câu hoàn chỉnh nên nó có khả năng độc lập ngoài ngữ cảnh
và hoà nhập vào bối cảnh mới. Do tính năng đó các chính khách thường lẩy Kiều
nhằm gửi gắm nỗi lòng hay một thông điệp ngoại giao gây thiện cảm với hàng triệu
người Việt.
Ở
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lẩy Kiều nhiều nhất. Đến ngay trong Di
chúc thiêng liêng, Bác Hồ căn dặn đồng chí, đồng bào: Còn non, còn nước, còn người/ Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười
ngày nay. Năm 2011, ông Nguyễn Phú Trọng kết thúc nhiệm kỳ Chủ tịch Quốc hội.
Sau khi nhận bó hoa từ tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, ông Nguyễn Phú
Trọng đã nán lại trên diễn đàn ít phút để chia sẻ cảm giác của mình 4 năm về
trước, vào một hoàn cảnh tương tự, tức ngày ông chính thức nhận trọng trách Chủ
tịch Quốc hội (năm 2017). Ông nhắc lại chuyện ông đã lẩy hai câu Kiều vào thời
điểm đó là "Nghĩ mình phận mỏng cánh
chuồn / Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay". Đó cũng là lời chia sẻ
của vị nguyên Chủ tịch Quốc hội về trách nhiệm lớn lao trước đất nước, trước
nhân dân mà ông phải đón nhận khi đảm đương vị trí quan trọng vào thời điểm đó.
Chính trị gia Mỹ cũng có truyền thống lẩy Kiều trong ngoại
giao với Việt Nam.
Năm 1995 khi Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Thủ tướng Việt
Nam Võ Văn Kiệt đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước,
gác lại quá khứ và mở ra một chương mới trong lịch sử hai nước. Tháng
11/2000, chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam trên cương vị Tổng thống Mỹ, ông
Bill Clinton cũng đã lẩy Kiều trong tiệc chiêu đãi trọng thể do Chủ tịch nước
Trần Đức Lương chủ trì: “Sen tàn cúc lại
nở hoa / Sầu dài ngày ngắn, Đông đà sang Xuân” để chuyển tải thông điệp về
phát triển tất yếu quan hệ Việt - Mỹ: Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai
tươi sáng mà cả hai nước đều có trách nhiệm xây dựng.
Ông
Joe Biden, Phó Tổng thống Mỹ, trong cuối phần phát biểu tại buổi tiệc tiếp ông
TBT Nguyễn Phú Trọng ngày 7.7.2015, cũng đã Lẩy 2 câu Kiều: “Trời còn để có
hôm nay / Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời” nhằm bày tỏ hy vọng vào
tương lai tươi sáng của quan hệ song phương sau một giai đoạn lịch sử khó khăn.
Obama
- Tổng thống Mỹ thăm Việt Nam tháng 5/2016, ông lẩy Kiều như một cam kết lòng tin trước hàng
ngàn người ở Hà Nội: "Rằng trăm năm cũng từ đây / Của tin gọi một chút
này làm ghi”.
Bên
cạnh xu hướng các chính khách lẩy Kiều, các văn nghệ sĩ cũng thường đưa câu
Kiều có giá trị như một slogan cho thông điệp trang Web cá nhân của mình.
Thực tế hiện nay chưa thấy có Slogan,
Motto nổi tiếng của doanh nghiệp nào áp dụng các hình thức lẩy Kiều hoặc khai
thác ý tưởng từ Truyện Kiều. Có lẽ,
các doanh nhân chưa ý thức được mối liên hệ thơ Kiều với cấu trúc các Slogan,
Motto, vì vậy vấn đề này cũng là nhiệm vụ của toạ đàm cần làm rõ.
Ở
đây, tôi có thể đơn cử một vị dụ có thể khai thác Slogan hay Motto từ thơ Kiều.
Trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp tự nhiên, tuyệt sắc, Nguyễn Du thường
dùng hai màu sắc “lục – hồng” để nói về vẻ đẹp con gái, phụ nữ nói riêng hoặc của
tuổi trẻ nói chung. Điều đó có nghĩa là biểu tượng “lục – hồng” là cái đẹp kinh
điển đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt được Nguyễn Du phản ánh cô đọng lại mà
thôi. Có rất nhiều câu như: Câu 26: Hoa
ghen thua thắm (đỏ, hồng), liễu hờn kém xanh; Câu 90: Nào người tiếc lục tham hồng là ai; Câu 1218: Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng; Câu 1305: Mụ càng tô lục chuốt hồng...
Các công ty mỹ phẩm, làm đẹp... đều có
thể lựa chọn các mẫu câu trên đây để sử dụng cho Slogan, Motto ở dạng nguyên bản
câu thơ hay sửa đổi như: Hoa ghen thua thắm
(đỏ, hồng), liễu hờn kém xanh hoặc sửa đổi như: Ngày ngày tô lục chuốt hồng; Sáng
tô lục, chiều chuốt hồng...
4.
Khai thác ý tưởng từ Truyện Kiều, vận
dung giá trị Truyện Kiều
+
Sơ lược giá trị Truyện Kiều
Nói đến giá trị của Truyện Kiều, không thể không nhắc đến
câu nói nổi tiếng của Phạm Quỳnh: “Truyện
Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn...”. Ông cho rằng: “Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện
Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, Truyện Kiều là
quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn
của ta. Truyện Kiều là cái « văn tự » của giống Việt Nam ta đã «trước bạ» với
non sông đất nước này... Đấng quốc sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên Điền ta vậy. Thiên
văn khế ấy là gì? Là quyển Truyện Kiều ta vậy.
Như vậy, Truyện Kiều kết tinh cái đẹp Việt (quốc hoa), mang đậm đà bản sắc
dân tộc (quốc tuý), phản ánh tinh thần, sức sống của dân tộc (quốc hồn)... Ngày
nay, nhiều người coi Truyện Kiều là
cuốn kinh của tình thương, là kinh thánh của tâm hồn.
Thực tế, Truyện Kiều
cũng đã bước vào vũ đài chính trị như là tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam.
Năm 1968 sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, nhân sự kiện phía địch
tìm thấy một cuốn Truyện Kiều cũ kỹ
và xơ xác trong hành trang ra trận ở túi áo của tử thi một chiến sỹ trẻ của ta[1], tạp chí The Washingtonian của Mỹ số tháng 4 có đăng bài viết về Truyện Kiều dài 2 trang với dòng tít hấp
dẫn “Một tài liệu ly kỳ vừa bắt được tiết
lộ tinh thần của địch”. Trong bài viết có hình minh họa Tổng thống Johnson
với lời chú thích “Giá như Tổng thống
Johnson đã đọc Truyện Kiều thì chắc đã không phải lâm vào tình trạng rắc rối
như ngày nay”.
Dạy Truyện Kiều ở Đại học De Anza bang California, Giáo sư John
Swensson (thời chiến tranh là Đại tá Mỹ đóng quân ở Củ Chi năm 1966, ở Sài Gòn
năm 1968, 1969) nói: “Muốn tìm hiểu con người Việt Nam thì hãy tìm hiểu Truyện Kiều. Có hiểu câu chuyện về sự chịu
đựng đằng đẵng 15 năm trời, chịu đủ mọi nỗi đau của Thúy Kiều thì mới hiểu được
sự kiên trì cùng sức chịu đựng ghê gớm của người Việt Nam, mới hiểu được tại
sao du kích Củ Chi lại có thể đào được hệ thống địa đạo Củ Chi, sống ở dưới đó
để rồi cuối cùng vươn lên giành thắng lợi. Tôi thấy ở Truyện Kiều một giá trị để
hoàn thiện con người”.
Trong khi đó, Kuroda Yoshiko là nữ thi sĩ sinh tại Kyoto,
Nhật bản dịch TK sang tiếng Nhật, bà cho rằng cốt lõi tốt đẹp của tinh thần Việt
Nam, và cũng là của Nhật Bản được xây dựng trên những “Lời thề” và đó cũng là
lý do bà chọn đặt tên cho Lời bạt cho bản dịch “Truyện Thúy Kiều” là “Thế giới
của lời thề”. Bà xem xét “lời hứa” của Thúy Kiều với nhiều nhân vật khác nhau
trong tác phẩm và xem việc không thể giữ lời thề nguyền đã chỉ phối như thế nào
đến suy nghĩ, hành động, cuộc đời của từng nhân vật trong câu chuyện.
Chúng
ta biết rằng, lời hứa, lời thề là nguyên tắc chi phối mọi quan hệ xã hội trong Truyện Kiều. Vì thế, lời hứa lời thề trở thành căn cứ cho luật pháp được
thực thi: “Thề sao thì lại cứa sao gia
hình”. Điều mà vẫn rất giá trị trong cuộc sông hiện đại hôm nay, đặc biệt với
doanh nghiệp và doanh nhân.
Vài
nét nhận xét trên cho chúng ta thấy những giá trị cốt lõi tinh thần mà chúng ta
đã có qua giá trị của Truyện Kiều. Như vậy, Truyện Kiều có thể được coi như một cẩm nang văn hoá Việt để doanh nhân
có thể vận dụng, xây dựng Văn hoá doanh
nghiệp Việt cho mình. Mặt khác, cộng đồng hàng triệu người Việt yêu mến Truyện Kiều, Nguyễn Du một lần nữa trở thành lực lượng ủng hộ cho các
doanh nghiệp biết khai thác và vận dụng giá trị Truyện Kiều.
+ Khai thác ý tưởng
từ Truyện Kiều
Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đơn
thuần mà đã trở thành một “công cụ” để phục vụ cuộc sống. Vì vậy, việc làm sáng
tỏ giá trị Truyện Kiều là công việc của quá khứ, hiện tại, tương
lai và không có hồi kết.
Chúng tôi xin
đơn cử một ví dụ thực tế, sinh động sau:
Lấy ý tưởng từ Truyện
Kiều, khai thác ứng dụng giá trị Truyện
Kiều vào cuộc sống một cách rõ ràng nhất phải kể đến việc thiết kế xây dựng
chùa Quán Sứ (Hà Nội) của cố Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn (1912-1990). Ông có nhiều công trình kiến trúc được lấy ý tưởng từ Truyện Kiều. Những
công trình cụ thể như: Phòng thu thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam ở phố Quán
Sứ; nhà giải khát công viên Thống Nhất và đặc biệt là chùa Quán Sứ.
Chùa Quán Sứ được xây dựng
vào thế kỷ 15. Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được
chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết
kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh
Nghiêm duyệt.
KTS Nguyễn Ngọc Ngoạn tâm sự: “Chùa
thấp, dáng dấp, các chùa thông thường, cửu phẩm liên đài vươn lên cao... Chúng
tôi nghiêng đầu, ngẹo cổ ngắm... Chúng tôi đến thực địa, đi bên này đường, sang
bên kia phố của phần liên đài cao, cao quá, tầm nhìn quá gần lại còn làm chướng
mắt chùa. Bỏ đi, chùa thấp, bình thường... không được. Làm ra sao? Chúng tôi
băn khoăn, suy nghĩ...
"Chùa đâu trông thấy
nẻo xa..." Tôi nghĩ tới câu thơ đó một cách ngẫu nhiên và đặt vấn đề phải
làm sao cho trông thấy chùa từ đầu phố... Đưa chùa lên cao: lênh khênh, mất tỷ
lệ, vẽ đi vẽ lại không đạt... "Sẵn Quan Âm Các vườn ta", không hiểu
sao chữ "Các" nhắc tôi đến "Khuê Văn Các" ở Văn Miếu. Chúng
tôi hình dung ngôi chùa hai tầng...
Táo bạo! Lạ kiểu! Quái gở!
Đó là những "tiếng bấc, tiếng chì", chúng tôi kiên trì chịu đựng. Như
một gáo nước lạnh dội vào: quan điểm của tôn giáo buộc Phật phải "tọa liền
với đất...". Ở đây, chúng tôi vấp phải tất cả những cái gì đã ăn sâu vào
con người, đã quen thuộc với các ngôi chùa thấp lè tè với chín, mười một gian
chi đó... với ấn tượng hai tầng là các nhà Tây mới được nhập cảng...
Tôi chùng tay... Kiến trúc
sư Nguyễn Xuân Tùng động viên "phải kiên trì" và chúng tôi mải miết
tiếp tục nghiên cứu... Cuối cùng phương án được chấp nhận. Những ấn tượng ban
đầu hình như tiêu tan hết và chùa Quán Sứ hai tầng đã được xây dựng... Chúng
tôi những người thiết kế - tự nhủ rằng không biết có quá đáng không - đã dám
nghĩ, dám làm, đã viết một dòng nhỏ trong trang sử kiến trúc tôn giáo Việt Nam.
Đánh giá đúng mức chùa Quán
Sứ phải đặt chùa trong bối cảnh lịch sử của thời đại, trong giai đoạn bao trùm
bởi một nền văn hóa nô dịch, trong giai đoạn mà số kiến trúc sư đầu tiên chỉ là
đếm trên đầu ngón tay. Còn nó chưa hoàn toàn Việt Nam, nó còn... và còn cái
này, cái khác... Thì đó lại là chuyện khác”.
Thay lời kết!
Giá trị Truyện Kiều
có thể được nhận định cụ thể, sâu sắc hơn ở từng lĩnh vực cuộc sống tuỳ thuộc
vào sự tìm hiểu của các doanh nhân trong từng lĩnh vực đặc thù của doanh nghiệp.
Trong bối cảnh các doanh nghiệp cần khẳng định Văn hoá doanh nghiệp Việt Nam
thì việc tìm ý tưởng sang tạo từ Truyện
Kiều, vận dụng các giá trị Truyện Kiều
là con đường ngắn nhất, đúng đắn nhất và có thể chinh phục hàng triệu người Việt
vốn yêu mến Truyện Kiều, yêu mến Nguyễn
Du cũng như tạo nên sự khác biệt, tạo nên giá trị Việt để có thể khẳng định
mình trong thế giới phẳng, trong xu hướng kinh tế toàn cầu hoá và có thể xây dựng
Xã hội tri thức.
Chúng tôi hy vọng rằng, Hội Kiều học sẽ là đơn vị tư vấn tốt
cho các doanh nhân muốn xây dựng Văn hoá doanh nghiệp Việt Nam từ những giá trị
Truyện Kiều.
Tài liệu tham khảo:
- Truyện Kiều, Khảo – Chú –
Bình, NXB Lao Động, TS Phan Tử Phùng chủ biên, Phan Văn Các, Thế Anh, Nguyễn Khắc
Bảo, Trần Đình Tuấn.
- Truyện Kiều bản UNESCO –
Nôm, Quốc ngữ đối chiếu. NXB Lao Động, TS Phan Tử Phùng chủ biên, Phan Văn Các,
Thế Anh, Nguyễn Khắc Bảo, Trần Đình Tuấn.
- Tìm hiểu kiến trúc qua
Truyện Kiều, KTS Nguyễn Ngọc Ngoạn, Hội Kiến trúc sư xuất bản.
- Và một số bài báo, tạp chí
khác....
[1]. “Dẫu súng đạn nặng đường ra hoả tuyến / Đi
đường dài, em giữ Truyện Kiều theo” (Gửi
Kiều cho em. Thơ Chế Lan Viên)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét