TỔNG THỐNG MỸ LẨY KIỀU

    Trong 23 năm qua ba đời Tổng thống và một Phó Tổng thống Mỹ đã bốn lần dùng Kiều để diễn đạt mối quan quan hệ Việt - Mỹ. Những câu thơ Kiều do các chính khách Mỹ lẩy tuy chưa phải là những câu hay nhất của Truyện Kiều nhưng đã được sử dụng phù hợp, sinh động, đắc địa trong các bối cảnh ngoại giao cụ thể của hai quốc gia ở các thời điểm khác nhau, giống như viên ngọc lớn trên đỉnh chiếc vương miện.

MỜI NHẤP VÀO DÒNG "XEM TRÊN YOUTUBE" TRÊN ẢNH  ĐỂ XEM VIDEO.



MƯỢN KIỀU ĐỂ TRẢ LỜI ĐỒNG BÀO

 Trong lịch sử văn học Việt Nam không dễ gì có nhiều văn chương có sức lay động quần chúng đứng lên đấu tranh cách mạng lớn lao như văn chương của Phan Bội Châu. Ngày nay trong văn chương đó, về tư tưởng và quan niệm, có thể điểm này điểm khác không còn phù hợp, nhưng trái tim chan chứa nhiệt huyết của tác giả vẫn còn nguyên giá trị. Ông là một trong số những nhà văn lớn của văn học Việt Nam trong nửa đầu thế kỷ 20. Người đầy trí lực như vậy mà vẫn phải mượn thơ Kiều để trả lời đồng bào thì mới thấy Truyện Kiều đúng là kiệt tác vô tiền khoáng hậu. 

MỜI NHẤP VÀO DÒNG "XEM TRÊN YOUTUBE" TRÊN ẢNH  ĐỂ XEM VIDEO.


BÁC HỒ LẨY KIỀU

     Bác vận dụng Kiều để chào mừng, đáp từ các vị khách quốc tế vừa đề cao giá trị nội dung, nghệ thuật của một kiệt tác văn học vừa khẳng định văn hóa đặc sắc của Việt Nam; quảng bá, giới thiệu với bạn bè quốc tế tác phẩm văn chương bất hủ, bách khoa thư của người Việt.

    Theo thống kê của chúng tôi, từ năm 1957, khi tiếp Chủ tịch Xô viết - ngài K.E.Vôrôsilốp - và đến sau này, Bác Hồ có 9 lần “lẩy Kiều”, nhiều nhất là các năm 1957, 1963. Đó là chưa nói đến việc sử dụng Kiều trong các bài báo có tính chất quốc tế như: “Kiều bào yêu nước”, “Một tin tức lạ”, “Sẵn sàng giúp đỡ”..

                    

        MỜI NHẤP VÀO DÒNG "XEM TRÊN YOUTUBE" TRÊN ẢNH  ĐỂ XEM VIDEO.




NÉT ĐỘC ĐÁO TRONG TẬP KIỀU


TẬP KIỀU là  ghép các câu Kiều như “lẩy Kiều” nhưng có thể thêm bớt từ khác để ra những câu theo “hình thức Kiều” mà mang tinh thần khác, phù hợp với văn cảnh. Tập Kiều khó với người bình dân, nhưng lại thú vị và dễ với những bậc cao thủ chữ nghĩa.

MỜI NHẤP VÀO DÒNG "XEM TRÊN YOUTUBE" TRÊN ẢNH  ĐỂ XEM VIDEO.



HÁT THƠ KIỀU THEO ĐIỆU CHẦU VĂN

Hát văn, còn gọi là chầu văn, hát hầu đồng, hát bóng, là một loại hình nghệ thuật ca hát cổ truyền của Việt Nam. Đây là hình thức lễ nhạc gắn liền với nghi thức hầu đồng của tín ngưỡng Tứ phủ (Đạo Mẫu) và tín ngưỡng thờ Đức Thánh Trần (Đức Thánh Vương Trần Hưng Đạo), một tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Bằng cách sử dụng âm nhạc mang tính tâm linh với các lời văn trau chuốt nghiêm trang, chầu văn được coi là hình thức ca hát mang ý nghĩa chầu thánh. Hát văn có xuất xứ ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Mời quý vị nghe Nghệ nhân Vũ Huy Dự ở thành phố Hồ Chí Minh hát thơ kiều theo điệu chầu văn Bắc vào ngày từ 26 tháng 6 năm 2020, tại Thành phố Hồ Chí Minh, trong cuộc thi “Bạn đọc thuộc Kiều” đợt 3, khu vực phía Nam. 

MỜI NHẤP VÀO DÒNG "XEM TRÊN YOUTUBE" TRÊN ẢNH  ĐỂ XEM VIDEO.



 

DÙNG TRUYỆN KIỀU KÉN CHỒNG

Trước Cách mạng Tháng Tám khá lâu, chuyện bói Kiều đã phổ biến trong dân gian, và nhà văn Ngô Tất Tố đã đưa vào trong tiểu thuyết "Lều chõng". Khi Vân Hạc đi thi, vợ là cô Ngọc muốn biết trước kết quả nên đã dùng "Truyện Kiều" để bói và được bốn câu:

Bó thân về với triều đình
Hàng thân lơ láo, phận mình ra đâu
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn, ra cúi công hầu mà chi?

"Cứ trong ý tứ mà suy", cô Ngọc biết chồng sẽ hỏng thi, nếu như đậu thì sẽ làm quan, là người của triều đình, trái với ý của bốn câu thơ trên. Vân Hạc học giỏi, khi thi hỏng, rất buồn, nhưng vợ không buồn và lựa lời an ủi chồng rằng chẳng qua vì cái số, đã được báo trước trong "Truyện Kiều".


MỜI NHẤP VÀO DÒNG "XEM TRÊN YOU TUBE" TRÊN ẢNH  ĐỂ XEM VIDEO.



 

TIẾNG VIỆT CỦA TRUYỆN KIỀU

 

Vợ chồng giáo sư Nguyễn Đình Chú.

GS.TS NGUYỄN ĐÌNH CHÚ

    Tôi muốn mở đầu bài viết này từ những câu nói sau đây về tiếng Việt của Truyện Kiều: 
    “Nam âm tuyệt xướng” (Truyện Kiều là tiếng nói tuyệt hay của nước Nam)  Đào Nguyên Phổ.
    Truyện Kiều” là quốc hoa quốc túy quốc hồn của ta đó. “Truyện Kiều” còn tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn” - Phạm Quỳnh.
    Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn” - Chế Lan Viên
        Ta nghĩ gì về những câu nói của các bậc tiền nhân trứ danh này?
        Rõ ràng mỗi người một cách phát ngôn, nhưng chung nhau một ý tưởng coi tiếng Việt của Truyện Kiều là hay nhất, đẹp nhất, tuyệt diệu nhất của tiếng Việt Nam ta. Trong ý kiến của Phạm Quỳnh và Chế Lan Viên lại còn nói đến vai trò của tiếng Việt Truyện Kiều trong sự tồn vong của đất nước.Với Chế Lan Viên là nhà thơ trứ danh của cách mạng thì chỉ rặt được sự tán thưởng. Nhưng với ông chủ bút Tạp chí Nam Phong tôn vinh Truyện Kiều vào năm 1924 trong dịp Hội Khai Trí Tiến Đức kỷ niệm Nguyễn Du là buổi đất nước còn bị thực dân Pháp đô hộ. Do đó, câu nói của ông chủ bút về tiếng Việt Truyện Kiều hẳn đã không thoát khỏi đòn bút của hai chí sĩ Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng, sau 13 năm tù Côn Đảo được thả ra, kết tội Phạm Quỳnh đã gây ra phong trào sùng bái Truyện Kiều để ru ngủ thanh niên quên nhiệm vụ cứu nước. Còn trên văn đàn công khai thì Nam Phong và vị chủ bút vẫn được ca ngợi hết lời.Như thế thì cũng chẳng có ai đụng đến hai câu nói đó của Chủ bút. Chỉ sau ngày Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, trừ các vùng như Hà Nội trước 1954, miền Nam trước 1975, còn nữa thì một thời Tạp chí Nam Phong bị coi là văn học nô dịch, đặc biệt với chủ bút đã bị qui tội bồi bút thực dân. Hai câu nói của Chủ bút về tiếng Việt của Truyện Kiều thì bị coi là viên đạn bọc đường. Ý cho rằng lời nói này hay nhưng đó là nguy hiểm cho đất nước trong hoàn cảnh mất nước. Một cái tội tày trời (?!) Sự thể từng là thế. Hôm nay ta sẽ nghĩ thế nào nhỉ?
Trước hết phải thấy qui luật cộng hưởng trong tiếp nhận văn bản nói chung văn bản nghệ thuật nói riêng vốn là thiên hình vạn trạng và mang dấu ấn cá nhân và thời đại, kể cả chính thể. Với hai câu nói như thế mà có nhiều ý kiến khác nhau là điều dễ hiểu. Còn với chúng ta hôm nay, liệu có ai coi hai câu nói đó là viên đạn bọc đường nữa không. Có lẽ là không trong khi có nhiều người thích thú , coi đó là thuộc loại những câu nói hay nhất, đích đáng nhất về Truyện Kiều. Sau đây tôi thử dựa theo lý thuyết diễn ngôn đang ăn khách trên thế giới, kể cả ở nước ta là lý thuyết tôn trọng sự tồn tại khách quan của ngữ nghĩa của ngôn từ để giải mã nội dung của nó xem sao.
Một câu hỏi có thể đặt ra: Sao lại chỉ Truyện Kiều là “Quốc hoa quốc túy quốc hồn”? Và sao lại chỉ “Nguyễn Du viết Kiều” đất nước mới “hóa thành văn”? Nguyễn Trãi với Quốc âm thi tập, Hồ Xuân Hương - Bà chúa thơ Nôm, Tú Xương - bậc Thần thơ Thánh chữ… đâu mà không có tên, kể cả ngôn ngữ của ca dao thuộc văn học dân gian sao không được nói đến? Đâu chỉ ngôn ngữ văn chương mới làm nên “quốc hoa quốc túy quốc hồn” trong khi quốc hoa quốc túy quốc hồn là sự thăng hoa kết tinh từ nhiều phương diện trong sự sống của đất nước. Thiết nghĩ câu hỏi trên cần đặt ra như thế nhưng là thừa. Bởi vị chủ bút và nhà thơ đã thừa biết thế nhưng đây là muốn nói về vị trí số một ở độ kết tinh thăng hoa tuyệt đỉnh của tiếng Việt Truyện Kiều mà không một thi tài văn tài nào của đất nước ngang tầm. Vả chăng đây là câu nói trong Diễn văn đọc tại buổi lễ Kỷ niệm Nguyễn Du, chứ đâu là chuyện bàn về quốc hoa quốc túy quốc hồn Việt Nam nói chung.
        Như đã nói trong ý kiến của ông chủ bút và nhà thơ còn nói đến vai trò của tiếng Việt Truyện Kiều trong sự tồn vong của đất nước. Trong thực tế, phải chăng đang có tình trạng là khi nghĩ đến sự tồn vong và phát triển của đất nước vốn bao phen bị ngoại xâm đặc biệt từ giữa thế kỷ XIX đến năm 1979 lại phải đương đầu với bốn cuộc chiến tranh vệ quốc mà vẫn giữ được đất nước nên trong cảm hứng tôn vinh thiên về công lao của võ công hơn là văn nghiệp. Do đó mà khi nói đến vai trò lịch sử, nói đến lòng yêu nước thường chỉ nói nhiều đến nhân dân anh hùng, các bậc anh hùng cứu quốc. Tình trạng đó là cần thiết có lý do nhưng chưa đủ độ hoàn chỉnh… Bởi lẽ Nguyễn Du viết Kiều làm nên “quốc hoa quốc túy quốc hồn”và “đất nước hóa thành văn”như thế sao lại không phải là nhà ái quốc vĩ đại. Trong các sách viết về nội dung yêu nước của văn thơ Việt Nam từ trước đến nay hình như chưa thấy đâu nói làm đẹp tiếng Việt, làm đẹp văn chương của đất nước như Nguyễn Du viết Kiều cũng là yêu nước vĩ đại và Truyện Kiều chính là sản phẩm của lòng yêu nước vĩ đại đó...
        Để rõ hơn điều này, cần nói đến vị trí của ngôn ngữ, của tiếng nói trong sự tồn vong của đất nước. Đất nước bị xâm lăng thì mất lãnh thổ, mất chủ quyền, mất chế độ, mất quyền sống. Nhưng với tinh thần quật cường của nhân dân trong các phong trào cứu nước dưới sự lãnh đạo của các bậc anh hùng một khi đã đại thắng như lịch sử Việt Nam ta đã bao phen chứng minh thì lãnh thổ, chủ quyền quyền sống đều lại còn kể cả chế độ nếu muốn. Nhưng mất nước mà mất đến cả văn hóa, phong tục tập quán, đặc biệt là mất tiếng nói thì ôi thôi là mất vĩnh viễn. Hiện thực đó đâu khó thấy. Vả chăng với đất nước đâu chỉ có chuyện chống xâm lăng mà quan trọng hơn còn phải là phát triển với đủ lãnh vực của cuộc sống mà nhất định không thể thiếu văn chương mà ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên. Nói qua một chút như thế là đủ để chúng ta thấy mấy câu nói của hai ông, đặc biệt là câu nói của ông chủ bút Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn tiếng ta còn; tiếng ta còn nước ta còn” là tuyệt đối đúng với qui luật khách quan của sự sống với bất cứ quốc gia dân tộc nào.
        Để hiểu sâu hơn giá trị của mấy câu nói của ông chủ bút và nhà thơ trong việc đề cao tiếng Việt Truyện Kiều, thiết tưởng lại cần có cách hiểu khái niệm thiên tài là thế nào. Trong thực tế, để tôn vinh giá trị người, trong tiếng Việt đã có không biết bao nhiêu thuật ngữ. Nào là: anh hùng, hào kiệt, vĩ đại, vĩ nhân, thánh nhân... Trong lãnh vực văn chương cũng có nhiều thuật ngữ. Nào là: văn tài, thi hào, thi bá, thần thơ thánh chữ… Riêng thuật ngữ “thiên tài” thì được dành chung cho nhiều lãnh vực của cuộc sống. Việc sử dụng thuật ngữ này thì cũng tùy ai thích dùng thế nào thì dùng. Xin kể một trường hơp: ngày
        Đặng Thái Sơn đạt giải nhất quốc tế Piano về nước, báo chí nhiều chỗ coi đó là thiên tài. Truyền hình Việt Nam giới thiệu về Đặng Thái Sơn. Một ông chủ nhiệm của Nhạc viện quốc gia Hà Nội phát biểu: “Đặng Thái Sơn là thiên tài. Rồi đây dưới chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt của chúng ta sẽ có hàng chục thiên tài”. Không dấu gì quí vị, nghe câu nói này tôi bảo con tắt ngay tivi và buột ra một câu: nói phét. Nếu nói phét thì tôi còn nói gấp trăm đấy. Chuyện đời là thế. Còn với văn chương Việt Nam thì thuật ngữ thiên tài cũng đã dùng cho Nguyễn Du nhiều hơn nhưng còn là với một vài tác gia tác phẩm khác. Có trường hợp không dùng thuật ngữ thiên tài mà dùng từ tố “người trời viết”. Đó là trường hợp thần đồng thơ Trần Đăng Khoa… Riêng tôi, trong bài viết Nguyễn Du thiên tài, vấn đề đã quen mà còn lạ(1) thì đã vận dụng thuật ngữ “thiên tài” với quan niệm nghiêm ngặt của Goeth (Gớt): “Không phải nước nào cũng có thiên tài. Chỉ một số nước nào đó mới có thiên tài. Mà nước có thiên tài thì không phải ai cũng thành thiên tài. Chỉ một vài người nào đó có khả năng thành thiên tài. Mà người có khả năng thiên tài đó không phải ở tình huống nào cũng thành thiên tài. Phải có một tình huống nào đó mới thành thiên tài”. Tôi cũng dựa thêm ý của Mác:” Chủ nghĩa xã hội không thể tạo ra thiên tài. Nhưng nếu cuộc sống có mầm mống thiên tài thì chủ nghĩa xã hội đảm bảo cho mầm mống ấy trở thành thiên tài”. Từ quan niệm nghiêm ngặt về thiên tài như thế, tôi nghĩ rằng: Việt Nam ta là nước có thiên tài. Ở các lãnh vực nào khác thì xin để vị nào đó cho ý kiến. Riêng tôi thấy ở lãnh vực văn chương là có thiên tài, mà về tác phẩm thì không gì khác ngoài Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tôi đã từ một cách nghĩ ít nhiều khác với những gì thường có xưa nay trong việc chứng minh Truyện Kiều là tác phẩm thiên tài thể hiện trong bài viết đó. Mong được quí vị đọc cho...
        Sau đây xin nói về cội nguồn và sự hiện diện của thiên tài tiếng Việt Truyện Kiều với những luận điểm gốc chứ không phải là việc miêu tả chi li cụ thể:
       Trước hết, ngôn ngữ tiếng Việt đã được văn bản hóa là yếu tố đầu tiên không thể thiếu khi nói Truyện Kiều là kiệt tác thiên tài. Bởi các sách lý luận văn chương đều nói: Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên tạo ra tác phẩm, dù kiệt tác hay không kiệt tác. Tiếng Việt của Truyện Kiều đã kết tinh ở độ thiên tài. Nhưng sau Truyện Kiều, tiếng Việt văn chương vẫn phát triển và mang tính chất lịch sử cụ thể, đặc biệt một khi văn chương Việt Nam chuyển từ phạm trù trung đại sang phạm trù hiện đại với hai thành tựu tiêu biểu là sự hình thành và phát triển nền văn xuôi hiện đại và sự xuất hiện phong trào Thơ mới thì về mặt tiếng Việt cũng không ít thành tựu xuất sắc nhưng vẫn chưa có tác phẩm nào đạt được độ kết tinh thiên tài như Truyện Kiều. Ngược lại trong thời đại mới, tiếng Việt ở Truyện Kiều dù đã ở độ thiên tài vẫn có bộ phận phải để lại quá khứ. Đó là qui luật.
Tiếng Việt của Truyện Kiều là sự kết tinh ở mức độ thiên tài của quá trình vận động phát triển của tiếng Việt nói chung trong đó có tiếng Việt văn chương bao gồm hai luồng cơ bản là ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ dân gian. Ở Truyện Kiều là sự giao thoa của hai luồng ngôn ngữ đó nên vừa có tính chất dân gian do nguồn gốc thuộc ngôn ngữ dân gian (Follorique), ví như “mạt cưa mướp đắng”, “rằng không thì cũng vâng lời rằng không”…, vừa có khả năng dân gian hóa nghĩa là từ ngôn ngữ Truyện Kiều mà gia nhập ngôn ngữ dân gian (Folkloriser) ví như “đồ Sở Khanh”, “ghen Hoạn Thư”...
    Tiếng Việt của Truyện Kiều là sự kết tinh của văn chương Việt Nam nói chung, trực tiếp là văn học Nôm mở đầu từ Phi sa tập và Văn tế cá sấu của Hàn Thuyên đến Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Thiên Nam ngữ lục (khuyết danh) Hồng Đức quốc âm thi tập và Thập giới cô hồn quốc ngữ văn của Lê Thánh Tông, thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đặc biệt đến cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX thì đã có sự phát triển rực rỡ với nhiều thành tựu xuất sắc: Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, dịch phẩm Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm (?), thơ của Bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương, thơ của Bà Huyện Thanh Quan… Trên cái nền đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du là đỉnh cao nhất.

        Tiếng Việt của Truyện Kiều cũng là sự kết tinh của quá trình vận động và phát triển thể tài thuộc văn học Nôm từ chỗ là thơ Đường luật, văn tế đến diễn ca lịch sử, đến truyện thơ là thể loại tiền thân của thể loại tiểu thuyết vốn có khả năng dung chứa nội dung cuộc sống và đời sống tâm lý tình cảm con người lớn hơn. Chưa bao giờ thể loại truyện Nôm phát triển phong phú như ở thế kỷ XVIII mà Truyện Kiều cũng là đỉnh cao nhất do có quan điểm nghệ thuật mới vượt ra khỏi quan niệm thi ngôn chí là viết để tỏ rõ ý chí của mình và khuyên răn đời, còn đây là viết về “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”. Khác nhau khá cơ bản trong văn chương. Về bút pháp, ở đây, đã có sự vượt khỏi tính chất truyện kể khá lớn để ít nhiều có tính chất tiểu thuyết hiện đại trong đó về mặt miêu tả nội tâm tâm lý nhân vật tài giỏi đến mức tác giả được mệnh danh là bậc thánh thiên tử về tâm lý trong văn chương. Học giả Phan Ngọc còn cho rằng văn chương phản ảnh tâm lý con người thì Truyện Kiều là vô địch đối với văn chương thế giới (?). Hiện tượng tập Kiều, lẩy Kiều, đặc biệt là bói Kiều là do Truyện Kiều đã hầu như ôm hết mọi cảnh ngộ, mọi tâm trạng trong cuộc sống con người...

        Tiếng Việt của Truyện Kiều kết tinh ở độ thiên tài còn thể hiện trong phương pháp sáng tác vừa hiện thực vừa lãng mạn và trong việc xây dựng nhân vật chính diện và phản diện. Về hiện thực thì thiên về ngôn ngữ dân gian. Về lãng mạn thì thiên về ngôn ngữ bác học. Với nhân vật chính diện thì thiên về ngôn ngữ bác học. Với nhân vật phản diện thì thiên về ngôn ngữ dân gian. Một chút so sánh ngôn ngữ tả hình hài mặt mũi của chị em Thúy Kiều và Thúy Vân với Tú Bà và Hồ Tôn Hiến thì rõ, một bên thiên về bác học một bên thiên về dân gian như thế.

        Để kết thúc bài viết, tôi có ba ý kiến như sau:

        Đề cao tiếng Việt của Truyện Kiều như thế là cần thiết nhưng chỉ coi đó là yếu tố đầu tiên không thể thiếu. Chứ để có được Truyện Kiều thiên tài thì cơ bản vẫn là nội dung tư tưởng tình cảm và khả năng sáng tạo đa diện, toàn diện của tác giả. Mà nền tảng chính là tình thương con người ở mức bao la, bát ngát . So với những tác gia thiên tài của nhân loại, về triết lý, có thể Nguyễn Du không bằng, nhưng về tình thương con người thì có lẽ là hơn bất cứ thiên tài nào trong phạm vi tôi biết. Truyện Kiều của Nguyễn Du đã dựa vào Nho giáo và Phật giáo và từng có ý kiến coi Phật giáo là triết lý, Nho giáo là đạo đức, hoặc cả hai vừa là triết lý vừa là đạo đức. Riêng tôi thì cho rằng ở Truyện Kiều, Nho giáo là hình hài, Phật giáo là hồn cốt. Bởi về hình hài, Truyện Kiều là sự minh họa cho triết lý của Nho giáo “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. Nhưng đó chưa đủ để tạo nên hồn cốt của tác phẩm. Hồn cốt của tác phẩm phải là từ nỗi “Đau đớn thay phận đàn bà”trong muôn nơi muôn thuở chứ không riêng gì của đàn bà Việt Nam thời Nguyễn Du, bởi như Mộng Liên Đường đã nói: “Nguyễn Du có con mắt trông thấu sáu cõi. Có tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời”. Nỗi đau này có gốc rễ từ truyền thống đạo đức dân tộc được nâng cao nhờ có Phật giáo vốn là một tôn giáo có tình thương con người  mênh mông thăm thẳm hơn bất cứ tôn giáo nào.

        Dù giá trị thiên tài Truyện Kiều nhìn chung là thế nhưng vẫn phải nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của ngôn ngữ ở đây là tiếng Việt của Truyện Kiều trong việc tạo ra sức sống phi thường của Truyện Kiều đã bất chấp thời gian, bất chấp chính kiến của các giai tầng xã hội, bất chấp trình độ của người đọc, đặc biệt là với cả người không biết chữ, vượt biên giới quốc gia vươn ra thế giới, tuy thanh danh chưa bằng một số kiệt tác thiên tài nào đó của quốc gia nào đó bởi tùy thuộc vào vị trí tầm vóc thanh danh văn hóa Việt Nam ta trên trường quốc tế chưa ngang tầm so với vị trí của một số quốc gia đó có kiệt tác thiên tài. Dù vậy, trong chừng mực hiểu biết của tôi có tham khảo ý kiến nhiều bạn là chuyên gia văn học nước ngoài thì không đâu như Truyện Kiều của Việt Nam, đã tạo ra một hiện tượng văn hóa Kiều với không biết bao nhiều loại hình mà chúng ta đã biết.

        Bài viết này chủ yếu là nhằm nâng cao nhận thức sâu sắc hơn, tường minh hơn về độ kết tinh thiên tài của tiếng Việt Truyện Kiều. Mà nội dung là bằng tư duy phân tích lịch sử kết hợp với tư duy phân tích logic để nêu lên những luận điểm cơ bản ở cấp độ vĩ mô bao quát khi nói đến giá trị thiên tài của tiếng Việt Truyện Kiều.. Còn việc khám phá cụ thể về tiếng Việt Truyện Kiều trên các phương diện văn bản học, giá trị văn chương, giá trị ngôn ngữ học, tu từ học, cách hiểu từ này từ khác, tính chất địa phương của từ ngữ… thì khoa Kiều học đã có không biết bao nhiêu là thành tựu với rất nhiều cách thức khám phá. Có thể kể một vài công trình công phu như Tự điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, Tìm hiểu từ ngữ Truyện Kiều của Lê Xuân Lít, Tự điển âm từ cổ Truyện Kiều của Bùi Thiết… Riêng tôi, ngoại cửu tuần rồi, không làm được gì hơn nữa. Chứ nếu còn làm được việc đào tạo thì ở bậc thạc sĩ, mỗi luận điểm nêu lên đó sẽ là một đề tài luận văn. Ở bậc tiến sĩ thì đề tài sẽ là vấn đề chung: Tiếng Việt của Truyện Kiều.


N.Đ.C

1. Xem: Nguyễn Đình Chú :Văn hóa Văn học Giáo dục (Tuyển chọn những bài nghiên cứu sau 1975). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội 2017.


CHÊ TRUYỆN KIỀU

     Truyện Kiều là một kiệt tác đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi của một quốc gia, trở thành một phần của tinh hoa của văn hóa nhân loại, ghi dấu ấn văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế. Với Truyện Kiều nói riêng và toàn bộ trước tác của Nguyễn Du nói chung, ông được các thế hệ người Việt Nam tôn vinh là Đại thi hào dân tộc, Hội đồng Hòa bình thế giới vinh danh là Danh nhân văn hóa thế giới.

    Tuy nhiên không phải không có những sự chê bai về Truyện Kiều của người đời, kể cả những bậc túc Nho. 


MỜI NHẤP VÀO DÒNG "XEM TRÊN YOUTUBE" TRÊN ẢNH  ĐỂ XEM VIDEO.




NHỮNG TÊN GỌI CỦA TRUYỆN KIỀU


MỜI NHẤP VÀO DÒNG "XEM TRÊN YOUTUBE" TRÊN ẢNH  ĐỂ XEM VIDEO.

Thi hào Nguyễn Du khi sáng tác “Truyện Kiều” đã đặt tên cho tác phẩm nổi tiếng này là gì? Cho đến nay, giới nghiên cứu Kiều vẫn còn phân vân, chưa dứt khoát hẳn một nhan đề nào là khởi đầu do cụ Nguyễn Du đặt.

Tuy vậy từ khi ra đời đến nay “Truyện Kiều” đã có khá nhiều tên gọi. 

Về tên gọi ban đầu, người thì cho là Kim Vân Kiều tân truyện hay Kim Vân Kiều truyện, người khác lại cho là Đoạn trường tân thanh, chưa kể các tên gọi khác như Kim Túy tình từ… sau khi cụ Ngô Đức Kế bài bác tên gọi “Kim Vân Kiều”, Trần Trọng Kim đã gọi khác đi là Truyện Thúy Kiều, Hồ Đắc Hàm gọi là Kiều truyện dẫn giải, Phúc An gọi là Kim Kiều tình tự, Tản Đà gọi là Vương Thúy Kiều chú giải tân truyện… rồi sau này tên gọi đơn giản “Truyện Kiều”(2) như Phạm Quỳnh với câu nói nổi tiếng: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn” bắt đầu được dùng phổ biến đến nay. 

Video này là một tài liệu tham khảo.

"KIỀU" - BỘ PHIM ĐÁNG XEM



    Phim điện ảnh cổ trang "KIỀU" của Đạo diễn Mai Thu Huyền, do Tincom Media Global sản xuất, được lấy cảm hứng từ tuyệt tác "Truyện Kiều" của đại thi hào Nguyễn Du, đã tham gia nhiều liên hoan phim và đạt được nhiều giải thưởng trong nước và quốc tế:

  • Best Music - The Kite Awards 2021 (Âm nhạc xuất sắc nhất Cánh Diều Vàng 2021)
  • B Award for Best Film 2021- HCMC Film Association (Giải B Phim truyện xuất sắc 2021 - Hội Điện Ảnh TP. HCM)
  • The most outstanding Vietnamese film of the year in 2021 Asian World Film Festival 
  • Official Selection 2021 Newport Beach Film Fest 
  •  2021 Golden Global Submission 
  •  2021 Vietnam National Film Festival Nomination
  • Official Selection 2022 Hanoi International Film Festival (HANIFF)
  • Official Selection 2023 Meghalaya International Film Festival (Megh IFF) 

BẠN CÓ THỂ: 

 @ Xem thông tin về Phim Kiều tại website: https://kieumovie.com

 @ Khán giả tại Việt Nam có thể xem Phim Kiều trên Galaxy Play: tps://galaxyplay.vn/title/kieu

 @ Khán giả tại nước ngoài có thể xem Phim Kiều trên Amazon Prime: https://amzn.to/3CsVUHB    

Gần 100 năm sau, phim Kiều của Mai Thu Huyền không tái hiện toàn bộ Truyện Kiều như phim Kim Vân Kiều của Famechon, mà chỉ là lát cắt về cuộc đời của Thúy Kiều ở giai đoạn sau khi bán mình chuộc cha và rơi vào lầu xanh. Nó không phải là một bộ phim chuyển thể mà là bộ phim lấy cảm hứng từ Truyện Kiều, có những chi tiết sáng tạo hơi khác so với nguyên tác nhưng vẫn giữ những cái cốt lõi của tác phẩm.  Phim xây dựng theo thể loại cổ trang, fantasy (giả tưởng), xoay quanh mối quan hệ tình cảm và những ràng buộc giữa 3 nhân vật chính: Thúy Kiều, Thúc Sinh, Hoạn Thư với thông điệp đề cao khát vọng tình yêu và tự do. Phim dài 90 phút và được thực hiện với một đội ngũ chuyên nghiệp: Mai Thu Huyền đạo diễn kiêm Giám đốc sản xuất của phim, Phi Tiến Sơn tác giả kịch bản và đạo diễn hình ảnh, Nguyễn Đăng Khoa phó đạo diễn, Trần Bửu Lộc điều hành sản xuất, hoạ sĩ thiết kế Vi Ngọc Mai, nhà thiết kế phục trang Thủy Nguyễn, giám đốc âm nhạc Bùi Huy Tuấn. Về diễn viên, có những tên tuổi nổi tiếng: NSND Lê Khanh trong vai Hoạn Bà; Hiếu Hiền trong vai Hiền Bá; Cao Thái Hà trong vai Hoạn Thư; Long Đẹp Trai trong vai Mã Giám Sinh; Ca sĩ Phương Thanh trong vai Tú Bà; Mỹ nam Lê Anh Huy trong vai Thúc Sinh; Người mẫu, diễn viên Trình Thị Mỹ Duyên trong vai Thúy Kiều…Phim được thực hiện trong gần 2 năm với một lượng kinh phí không hề nhỏ, trên hàng chục tỷ đồng, bấm máy tại 6 tỉnh thành là Cao Bằng, Phú Thọ, Quảng Bình, Quảng Trị, Huế và TP.HCM với ê-kíp hơn 100 con người.

 

GẶP NGƯỜI HAY KIỀU

 Truyện Kiều là viên ngọc sáng chói, kiệt tác số một trong kho tàng văn học Việt Nam. Từ sau khi ra đời, tác phẩm đã có biết bao công trình nghiên cứu khoa học, biết bao thế hệ bạn đọc – cả trong và ngoài nước ở nhiều độ tuổi - tìm hiểu, đánh giá, hội thảo, phẩm bình… Ngày xuân, nhiều người thích Bói Kiều và thưởng thức Kiều theo cách riêng.

Cụ Nguyễn Hữu Khanh (1875- 1946), tên hiệu Hương Sơn Cư Sĩ, người xã Hương Ngải, (xưa gọi làng Ngái) huyện Thạch Thất, Hà Nội, được ghi nhận là “bậc túc nho thời cận đại”, một “nhà nho tài hoa, lãng mạn”. Hồi cụ Nghè Tập Xuyên Ngô Đức Kế mở hội đối trướng ở Hà Nội, cụ là một “đại bút” được cụ Ngô Đức Kế rất mến trọng.


Cụ có sở trường về thi ca bằng quốc âm, giọng thơ điêu luyện, tình tứ, pha chút hóm hỉnh. Tuy có tài “thông kim, bác cổ” – chữ dùng của Danh nhân Văn hóa Nguyễn Tử Siêu, người đương thời cùng làng – nhưng Cụ sống bằng nghề dạy học đạm bạc mà thanh cao, vui thú cùng điền viên, sơn thủy, với sách vở, bầu rượu, túi thơ.

Sau đây là những giai thoại thú vị về cụ. 


MỜI NHẤP VÀO "XEM TRÊN YOUTUBE" TRÊN ẢNH  ĐỂ XEM VIDEO.





CÂU THƠ KỲ LẠ NHẤT TRONG TRUYỆN KIỀU

Truyện Kiều là một tác phẩm toàn bích, “lời lời châu ngọc, hàng hàng gấm thêu” nên chọn câu nào, đoạn nào hay nhất trong Truyện Kiều là rất khó. Song nếu chọn bất kỳ một câu nào để nói là câu hay nhất cũng có thể được, nếu xét theo một tiêu chí nào đó.

Vì vậy, tìm một câu thơ kỳ lạ nhất trong Truyện Kiều lại càng không dễ. Đã có nhiều quan điểm khác nhau về câu thơ kỳ lạ nhất trong Truyện Kiều. Tuy nhiên cách chọn của nhà thơ Thạch Quỳ - tác giả của bài thơ dậy sóng một thời "Với con":


"Con ơi con, trái đất thì tròn
Mặt trăng sáng cũng tròn như đĩa mật
Tất cả đấy đều là sự thật
Nhưng cái bánh đa tròn, điều đó thật hơn"


Thì rất thuyết phục.


MỜI NHẤP VÀO DÒNG "XEM TRÊN YOUTUBE" TRÊN ẢNH  ĐỂ XEM VIDEO.




BÓI KIỀU, NÉT VĂN HOÁ TÂM LINH

         Bói Kiều là một nét văn hóa tâm linh lâu đời của người Việt. Đây là phương pháp xem bói dựa vào những câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du cùng với ni sư Giác Duyên và đạo cô Tam Hợp nhằm phán đoán những điều sắp xảy ra trong tương lai. Sở dĩ Truyện Kiều trở thành một sách bói trong nhân gian không chỉ vì từng câu thơ, chữ nghĩa ẩn chứa số mệnh con người mà còn vì sự linh nghiệm sau mỗi lần gieo quẻ. Những đoạn đời gập ghềnh mà nàng Thúy Kiều phải trải qua được Nguyễn Du mô tả trong 3254 câu thơ lục bát ấy, nếu soi vào cuộc đời của mỗi người, thử hỏi có ai không ít nhiều gặp phải.

        Mỗi một quẻ bói Kiều gồm 4 câu thơ thất ngôn bát cú, quẻ này giúp ta tương đoán thế vận trong tương lai. Đó không phải là một cái gì tiền định bất biến không thay đổi được mà chỉ là lời dự báo, cảnh tỉnh con người ta. Từ đó giúp ta suy xét lại những gì đã làm và suy tính, cân nhắc trước khi quyết định thực hiện một việc nào đó.


MỜI NHẤP VÀO "XEM TRÊN YOUTUBE" ĐỂ XEM VIDEO





VỀ CÁC HƯ TỪ THÌ, LÀ, MÀ TRONG TRUYỆN KIỀU


NGUYỄN ĐỨC THUẬN - BÙI MINH HUẾ(*)


        Do đặc điểm về thể loại, ngôn từ thơ thường hàm súc, mang tính tao nhã, trang trọng, nên các nhà thơ trong thực tế sáng tác chủ yếu dùng thực từ mà rất hạn chế dùng hư từ. Tuy nhiên, với thiên tài Nguyễn Du, bất kể từ nào cũng được nhà thơ sử dụng nhuần nhị và có sắc thái biểu cảm cao, hữu dụng như nhau. Một số hư từ đã được nhà thơ dùng rất tài tình, hết sức điêu luyện, góp phần làm tăng thêm giá trị nội dung và nghệ thuật của câu thơ. Ví như khảo sát ba hư từ thì, , trong kiệt tác Truyện Kiều, chúng ta cũng sẽ thấy được sự tài hoa của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn từ, đặc biệt là những hư từ, vốn được xem là rất “dị ứng” với ngôn từ thơ.

        Về đặc điểm của hư từ, xét trên phương diện ngữ nghĩa, các nhà ngôn ngữ học cho rằng: “Hư từ không có ý nghĩa từ vựng chân thực, chỉ có tác dụng nối các từ, các mệnh đề, các câu lại với nhau theo một quan hệ nào đó, chúng cũng không thể làm thành phần câu”(1). Còn về phương diện ngữ pháp. “Hư từ là những từ không có ý nghĩa từ vựng hẳn hoi mà chỉ có tác dụng làm công cụ để chỉ các ý nghĩa ngữ pháp khác nhau”(2). Tóm lại, có thể nhận diện về hư từ như sau: Hư từ tiếng Việt là những từ không mang ý nghĩa từ vựng. Trong đó, một số làm thành tố phụ trong đoản ngữ (phó từ), một số khác có chức năng biểu thị các quan hệ ngữ pháp (quan hệ từ) hoặc ý nghĩa tình thái ở cấp độ câu (trợ từ).(3) Như vậy, hư từ là một phạm trù từ loại đối lập với thực từ, chỉ là thành tố phụ, tiếng đệm, rất “khó” sử dụng trong sáng tác văn chương, nhất là trong sáng tác thơ.

Trong 3.254 câu Kiều, (theo văn bản Truyện Kiều của Đào Duy Anh)(4), thống kê cho thấy, với ba hư từ thì, , Nguyễn Du đã dùng 278 lần trên các dòng thơ; trong đó, từ thì 74 lần (chiếm 2,3%), từ 120 lần (chiếm 3,7%), từ 84 lần (chiếm 2,6%). Rõ ràng, sự hiện diện của ba hư từ này trong tác phẩm Truyện Kiều là một con số và một tỷ lệ không nhỏ. Tuy nhiên, khuôn khổ của một bài báo không cho phép viết dài, chúng tôi chỉ có thể nêu sơ lược một số trường hợp mà nhà thơ đã dùng về ba hư từ thì, , trên một số phương diện ngữ nghĩa và ngữ pháp.

HƯ TỪ “THÌ”

        Từ điển tiếng Việt(5) do Hoàng Phê chủ biên đã chỉ ra tới 5 nét nghĩa của từ “thì”. Tuy nhiên, từ “thì” được thể hiện với nghĩa là “thời”, không phải là hư từ. Ví dụ như dòng thơ tái hiện lại hình ảnh của Đạm Tiên:

Nổi danh tài sắc một thì

Xôn xao ngoài cửa hiếm gì yến anh.

        Chúng tôi sẽ không bàn đến những từ “thì” ở những trường hợp này, mà chỉ tìm hiểu từ “thì” với vai trò là những hư từ đích thực. Chẳng hạn như câu thơ miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều vào đêm trước khi phải bán mình chuộc cha:

Biết bao duyên nợ thề bồi Kiếp này thôi thế thì thôi, còn gì!

Hư từ “thì” trong câu thơ này vừa thể hiện sự dằn lòng, xót xa cho thân phận của mình, nhưng cũng vừa thể hiện sự chấp nhận, sự nuối tiếc mối tình dang dở mới chớm nụ mà chưa kịp đơm hoa của nàng Kiều. Cả bốn từ “thôi thế thì thôi”, trong đó từ thì cho thấy sự bất lực, buông trôi thân phận của nàng… Cũng là từ “thì” thể hiện sự xót xa, nhưng ý biểu cảm trong hai câu thơ này thì lại khác:

Thôi thì thôi, có tiếc gì!

Sẵn dao tay áo, tức thì dở ra.

        Không chấp nhận làm gái lầu xanh, Kiều định quyên sinh. Hư từ “thì” ở trong cụm từ “Thôi thì thôi” như một sự khẳng định dứt khoát, quyết liệt, không nuối tiếc cuộc sống ô trọc ở nơi lầu xanh của Kiều. Còn như câu thơ trong đoạn đối thoại giữa Thúy Kiều với Vương ông vào ngày đoàn viên ta lại thấy nét nghĩa của từ thì ở đây có khác:

Dở dang nào có hay gì,

Đã tu tu trót, qua thì thì thôi!

        Dòng bát (8) ngắt nhịp 2-2 / 2-2 như một tiểu đối. Hư từ “thì” đứng sau từ “thì” chỉ thời gian đã tạo nên sự nhịp nhàng cho câu thơ, nhưng cũng cho thấy sự dứt khoát trong ước muốn của Thúy Kiều mà nàng đưa ra để xin Vương Ông cho mình tiếp tục được ở lại am mây tu cùng sư Giác Duyên.

        Về đặc điểm ngữ pháp, hư từ thì trong Truyện Kiều vừa đóng vai trò là quan hệ từ (63,5%), nhưng cũng có lúc nó lại là trợ từ (36,5%). Hư từ “thì” với vai trò là quan hệ từ, chẳng hạn ở câu thơ:

        Nơi gần thì chẳng tiện nơi 

Nơi xa thì chẳng có người nào xa.

        Từ “thì” xuất hiện ở cả hai dòng thơ trên nhằm nhấn mạnh vào kết quả của những giả thiết mà Bạc Bà đưa ra, chẳng có ai khác, ngoài Bạc Hạnh có thể lấy Kiều, nó cho thấy sự gian trá và lươn lẹo của Bạc Bà. Bên cạnh đó, có những câu thơ Nguyễn Du sử dụng từ “thì” như là một trợ từ, ví dụ như câu:

Người mà đến thế thì thôi, 

Đời phồn hoa cũng là đời bỏ đi!

        Đây là tâm trạng của Thúy Kiều sau khi biết được cuộc đời tài hoa mà đầy bất hạnh của Đạm Tiên. Nàng ngẫm về cuộc đời Đạm Tiên mà nghĩ suy đến cuộc đời của mình. Trợ từ “thì” được sử dụng trong câu thơ trên đã thể hiện rõ tâm trí bất an của Kiều. Đó là sự bất an của một con người ý thức về sự tài hoa và lo sợ rằng mình cũng sẽ cùng chung cảnh ngộ, cùng hội cùng thuyền với Đạm Tiên…

HƯ TỪ “LÀ”

        Loại trừ từ với tư cách từ loại động từ hay danh từ, chúng tôi cũng chỉ xét từ “là” với tư cách là hư từ, khi là từ nối, từ đệm trong Truyện Kiều. Chẳng hạn:

Thôi còn chi nữa mà mong

Đời người thôi thế xong một đời!

        Hai câu thơ đã miêu tả rất rõ tâm trạng xót xa, tủi hổ cho thân phận của Thúy Kiều sau khi bị Mã Giám Sinh lấy mất sự trinh trắng của đời con gái. Từ “là” trong câu thơ này đã góp phần nhấn mạnh sự tủi phận, đau khổ của nàng Kiều.

        Trong trường hợp khác, hư từ “là” còn được xuất hiện khi nói đến cuộc đời Kiều trong lầu xanh của Tú bà:

Khéo mặt dạn mày dày

Kiếp người đã đến thế này thì thôi!

        Kiều tự cảm thấy tủi hổ, dơ dáng với chính mình, “mặt dạn mày dày” ở nơi lầu xanh nhơ nhớp!

        Trong Truyện Kiều, chúng tôi còn tiến hành thống kê và thu được kết quả Nguyễn Du đã sử dụng 36 lần từ “là” với vai trò là từ nối. Những hư từ này có vai trò liệt kê, miêu tả. Có thể kể một vài ví dụ như:

Đầu lòng hai ả Tố Nga 

Thúy Kiều chị, em là Thúy Vân

        Hay như những câu thơ miêu tả những ngày tháng tươi đẹp cuối cùng trước khi bước vào cuộc đời đoạn trường của Thúy Kiều:

Thanh minh trong tiết tháng ba

 Lễ tảo mộ, hội là Đạp thanh.

        Hư từ “là” trong Truyện Kiều cũng vừa có vai trò là quan hệ từ (70,9%) và cũng vừa có vai trò là trợ từ (28,3%). Nhưng dù với vai trò nào thì nó cũng mang những ý nghĩa ngữ pháp riêng.

        Có thể nói, hư từ “là” với vai trò là một phó từ rất ít để có thể bắt gặp được nó trong thi ca. Nhưng với Nguyễn Du, thì đúng là không có gì là không thể ! Còn đối với vai trò là quan hệ từ, hư từ “là” được dùng để đặt giữa hai yếu tố cùng loại trong một kết cấu để biểu thị nghĩa nhấn mạnh. Có thể lấy một ví dụ trong Truyện Kiều mà ở đây hư từ “là” mang ý nghĩa ngữ pháp này:

Rằng: “Hay thì thật hay 

Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào”.

        Nguyễn Du đã kết hợp sử dụng đến 2 hư từ trong cùng một câu. Đó là hư từ “thì” và hư từ “là”. Cả hai hư từ này đều được dùng để đặt giữa tính từ “hay” nhằm đưa ra lời khẳng định rằng những khúc nhạc của Thúy Kiều đều là những tuyệt phẩm. Ý nghĩa này còn được thể hiện trong những dòng thơ :

Vui vui gượng kẻo mà, Ai tri âm đó, mặn mà với ai?

Quan hệ từ “là” còn được dùng như một từ đệm trong các cặp quan hệ từ: hễ…là; nếu…là; đã…là… Ví dụ như trong câu thơ :

Đã không biết sống vui

Tấm thân nào biết thiệt thòi thương.

        Cặp từ này khiến cho câu thơ mang đậm ý khẳng định, từ đó khơi gợi lên sự chua xót, thương cảm nơi người đọc.

Cuối cùng, quan hệ từ “là” được dùng như một thành phần trong một kết cấu có tính chất quán ngữ như: vậy là, ra là, mới là, hay là…Ví như trong đoạn đối thoại của Kim Trọng và Thúy Kiều vào ngày đoàn tụ, Nguyễn Du đã viết :

Mấy lời tâm phúc ruột rà

Tương tri dường ấy, mới tương tri.

        Quan hệ từ “là” kết hợp để tạo thành quán ngữ đã làm tăng thêm tính gần gũi cho những vần thơ của Nguyễn Du. Ngoài ra, trong Truyện Kiều cũng có nhiều lần Nguyễn Du đã sử dụng hư từ “là” với vai trò là trợ từ. Và lúc này, trợ từ “là” sẽ thể hiện sắc thái nhận định chủ quan hoặc tự nhiên của lời nói. Đó là trong những câu thơ diễn tả lời nói chua xót của Thúy Kiều khi gặp lại Kim Trọng :

Còn chi cái hồng nhan

Đã xong thân thế, còn toan nỗi nào?

        Trợ từ trong câu thơ trên có thể bỏ đi được mà không làm mất ý nghĩa của câu. Tuy nhiên nếu ta bỏ đi hư từ này thì ý nhấn mạnh trong câu thơ sẽ không còn nữa. Từ xuất hiện ở giữa câu đã một lần nữa khẳng định sự chua xót của Thúy Kiều với bản thân mình. Nàng đau đớn khi đã bị mất đi nhan sắc của một đời người con gái…

HƯ TỪ “MÀ”

        Trong Từ điển tiếng Việt((6), từ “mà” được định nghĩa với 8 ý nghĩa, nhưng chúng đều không mang ý nghĩa từ vựng. Có khi là từ thay thế, từ biểu thị tính đối lập, từ nối hai ý, từ biểu thị một kết quả, từ đệm đặt ở cuối câu,… Nguyễn Du đã rất nhiều lần sử dụng hư từ “mà” trong Truyện Kiều với những ý nghĩa này:

Trăng thề còn đó trơ trơ, Dám xa xôi mặt thưa thớt lòng.

Hay như trong câu:

Cớ sao chịu tốt một bề

Gái tơ đã ngứa nghề sớm sao!

        Hư từ “mà” là một hư từ đặc biệt, do ý nghĩa từ vựng của nó đã bị hư hóa hoàn toàn. Nhưng ý nghĩa ngữ pháp mà hư từ này mang lại cũng vô cùng phong phú. Chúng tôi đã tìm ra trong Truyện Kiều, hư từ “mà” được dùng với các vai trò là quan hệ từ (81%) và trợ từ (19%). Ý nghĩa ngữ pháp đầu tiên của quan hệ từ “mà” là được sử dụng để biểu thị sự đối lập giữa hai yếu tố. Ví dụ:

Rằng: Sao trong tiết thanh minh

đây hương khói vắng tanh thế mà?

        Có thể thấy, hư từ “mà” tuy không mang ý nghĩa từ vựng, nhưng đã thể hiện rất rõ ý nghĩa ngữ pháp. Đọc hai câu thơ này, chúng ta nhận thấy đây là hai yếu tố đối lập nhau. Tương tự, ý nghĩa này còn được thể hiện qua câu thơ:

Lâm Tri đường bộ tháng chầy,

đường hải đạo sang ngay thì gần.

Ngoài ý nghĩa trên, quan hệ từ “mà” còn được dùng để biểu thị một mục đích. 

        Ví dụ:

Bảo rằng đi dạo lấy người

 Đem về rước khách kiếm lời ăn.

        Bên cạnh ý nghĩa biểu thị mục đích thì quan hệ từ “thì” còn để nối các yếu tố mang ý nghĩa giả thiết, như trong câu:

Mấy người bạc ác tinh ma

Mình làm mình chịu kêu ai thương!

Sau cùng, quan hệ từ “mà” còn được dùng để biểu thị một kết quả. Ví dụ:

Dại chi chẳng giữ lấy nền

Tốt chi giữ tiếng ghen vào mình.

        Sự đa chức năng ngữ pháp của hư từ “mà” còn được thể hiện ở vai trò khi nó là trợ từ. Chẳng hạn,, trợ từ “mà” thường đứng ở cuối câu với mục đích nhấn mạnh. Chẳng hạn:

Đã không duyên trước chăng

Thì chi chút đỉnh gọi là duyên sau.

        Từ “mà” xuất hiện ở cuối câu đã cho người đọc nhận thức được về mối quan hệ giữa “người khách ở viễn phương” với Đạm Tiên. Trợ từ “mà” này còn tạo cho câu thơ một sự nhẹ nhàng trong nhịp điệu, nhưng cũng đây đó phảng phất cảm xúc u buồn… Cũng có khi trợ từ “mà” được đặt sau chủ ngữ nhằm nhấn mạnh vào kết quả, trạng thái của chủ ngữ. Ví dụ:

Hoa tàn lại thêm tươi 

Trăng tàn lại hơn mười rằm xưa.

        Ở đây, người đọc hiểu rằng, đối với Kim Trọng, Thúy Kiều tuy đã vào thanh lâu hai lượt nhưng nàng “lấy hiếu làm trinh” thì trong suy nghĩ của chàng Kim, Kiều vẫn là một người phụ nữ vẫn còn trinh trắng (hiểu với ý nghĩa triết học của hình ảnh hoa trăng này!).

KẾT LUẬN

        Nếu thực từ có giá trị biểu cảm rất rõ thì hư từ lại khác. Hư từ không mang ý nghĩa từ vựng, nhưng nó lại góp phần làm sáng tỏ văn cảnh, thể hiện rõ mối quan hệ giữa các thành phần câu, từ đó sẽ có tác động sâu sắc tới tình cảm, cảm xúc của người đọc. Để thấy rõ được điều này, ngoài Truyện Kiều, chúng tôi cũng tiến hành thống kê các hư từ “thì” được sử dụng trong 2 tác phẩm: Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm và Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều. Qua thống kê, chúng tôi đã thu được kết quả như sau: hư từ “thì” được sử dụng trong Chinh phụ ngâm: 8 lần, Cung oán ngâm 3 lần. Chẳng hạn, trong Chinh phụ ngâm nữ sỹ Đoàn Thị Điểm cũng có những câu thơ sử dụng hư từ “thì” khá đặc sắc như:

Thiếp xin chàng chớ bạc đầu Thiếp thì giữ mãi lấy màu trẻ trung.

Còn như trong Cung oán ngâm:

Nghĩ nên tiếng cửa quyền ôi

Thì thong thả vậy cũng thôi một đời!

        Chúng tôi cũng tiến hành thống kê các hư từ “là” được sử dụng trong 2 tác phẩm: Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm và Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều. Kết quả như sau: Chinh phụ ngâm: cũng sử dụng 5 lần từ “là”, trong khi Cung oán ngâm: từ “là” xuất hiện 5 lần. Tuy nhiên, trong cả 10 lần từ “là” xuất hiện ở 2 tác phẩm này thì nó lại chỉ có vai trò là một từ nối giữa thành phẩn chủ ngữ và vị ngữ chứ không phải là hư từ.

Có thể kể đến một số ví dụ, như trong Chinh phụ ngâm:

Liễu sen thức cỏ cây

Đôi hoa cùng sánh đôi dây cùng liền.

Còn trong Cung oán ngâm:

Cờ tiên rượu thánh ai đang

Lưu Linh, Đế Thích làng tri âm.

        Trong những câu thơ than thân, khi Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh lấy mất đời con gái, Nguyễn Du đã viết:

Tuồng chi giống hôi tanh!

Thân nghìn vàng để ô danh má hồng.

        Trong thơ ca, “mà” là một hư từ cũng rất hay được sử dụng. Nhưng để dùng được hư từ này đến mức “tuyệt hay” và mang đến những giá trị biểu cảm sâu sắc thì hoàn toàn không phải là chuyện dễ dàng. Chúng tôi tiến hành thống kê các hư từ “mà” được sử dụng trong 2 tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm và Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, kết quả như sau: Chinh phụ ngâm: hư từ “mà” xuất hiện 9 lần, Cung oán ngâm: hư từ “mà” được sử dụng 25 lần. Trong Chinh phụ ngâm cũng có những câu thơ chứa hư từ “mà” mang đến những giá trị biểu cảm sâu sắc như:

Nghĩ mệnh bạc tiếc niên hoa 

Gái tơ mấy chốc ra nạ dòng.

        Nguyễn Gia Thiều sử dụng rất nhiều hư từ “mà” trong Cung oán ngâm. Hư từ này cũng mang đầy đủ những ý nghĩa ngữ pháp của nó. Tuy nhiên, không thể phủ nhận những giá trị biểu cảm mà nó mang lại. Có thể lấy một số ví dụ như sau:

Thảo nào khi mới chôn rau

Đã mang tiếng khóc ban đầu ra!

Hay như câu thơ xuất hiện từ cảm thán “dẫu mà”:

Dẫu tay có nghìn vàng,

Đố ai mua được một tràng mộng xuân!

        Trong Truyện Kiều, ta cũng bắt gặp vô số những lần Nguyễn Du sử dụng hư từ này mang đến những giá trị biểu cảm sâu sắc. Ví như:

Đã đành túc trái tiền oan 

Cũng liều ngọc nát hoa tàn chi!

Hay như:

Tiếc thay nước đã đánh phèn,

cho bùn lại vẩy lên mấy lần.

      
Cả ba hư từ “thì, là, mà” rất ít được sử dụng trong thơ ca, nhưng khi xuất hiện trong Truyện Kiều của Nguyễn Du chúng lại trở thành những từ nghệ thuật mang sắc thái biểu cảm rất cao. Truyện Kiều là sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học. Nguyễn Du là bậc kì tài trong việc sử dụng hư từ. Với Nguyễn Du, cuộc đời lưu lạc “mười năm gió bụi” đã khiến ông gần gũi với nhân dân, nên những tác phẩm của ông không chỉ có ngôn ngữ bác học mà còn mang đậm lời ăn tiếng nói của ngôn ngữ bình dân. Đối với hư từ, việc thể hiện đặc trưng ngôn ngữ văn hóa là một điều không phải ai cũng làm được. Nhưng với thiên tài Nguyễn Du thì khác. Ông đã đưa các hư từ - một loại từ vốn chỉ xuất hiện trong ngôn ngữ nói, nhưng khi đi vào những trang thơ Truyện Kiều thì nó dường như đã trở thành ngôn ngữ văn hóa. Việc Nguyễn Du sử dụng nhiều hư từ trong tác phẩm của mình cho thấy tác giả coi trọng vai trò của hệ thống ngôn ngữ “lời quê”, song song với ngôn từ văn chương bác học. Chính điều này đã làm cho kiệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành cuốn sách của nhiều người, nhiều dân tộc và thời đại.

Hải Phòng, tháng 6 năm 2020

N.Đ.T – B.M.H


Chú thích

(*) PGS.TS và ThS, Trường Đại học Hải Phòng.

(1). Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong Tiếng Việt hiện đại, Nhà xuất bản KHXH, tr 14.

(2) Hoàng Phê (1992), Từ điển tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển ngôn ngữ HN, VN, tr 472.

(3) Đỗ Phương Lâm (2014), Đặc điểm hư từ Hán Việt trong tiếng Việt, Luận án tiến sĩ - Học viện Khoa học xã hội.

(4) Đào Duy Anh (2016), Truyện Kiều, NXB Văn học.

(5) Hoàng Phê (1992), Từ điển tiếng Việt,sđd, tr 920-921.

(6) Hoàng Phê (1992), Từ điển tiếng Việt, sđd, tr 599 - 600.


 

THƯ NGỎ

Kính thưa quý vị!      Nguyễn Du (1765-1820) là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông ...