SINH VẬT TRONG TRUYỆN KIỀU



                    VƯƠNG TRỌNG

        Ta biết rằng, trong Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du, sinh vật bao gồm cỏ cây và các loài con đóng một vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến trạng thái tình cảm của các nhân vật, mà chủ yếu là nàng Kiều. Bởi rằng, cỏ cây, các loài con cùng với các hiện tượng tự nhiên tạo nên cảnh, mà cảnh không tách rời tình theo nguyên tắc “ Khi nên cảnh cũng chiều người” hoặc “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cùng trong một ngày thanh minh, khi Kiều đang vui thì “Cỏ non xanh tận chân trời. Cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Thế nhưng sau khi nghe Vương Quan kể chuyện Đạm Tiên, Kiều đã buồn, khóc và đề thơ bên mộ Đạm Tiên, thì cảnh trở nên buồn :“ Một vùng cỏ áy bóng tà. Gió hiu hiu thổi một và bông lau”. Có thể bạn đọc nói rằng: sở dĩ trong một ngày mà có cảnh vui, cảnh buồn là do hai buổi khác nhau: buổi sớm và buổi chiều. Không phải như vậy, sau khi ở mộ Đạm Tiên ra, Thuý Kiều gặp Kim Trọng, tình yêu chớm nở thì cảnh lại trữ tình và không hề buồn, dù nói về thời gian thì lúc này gần hoàng hôn hơn khi bên mộ Đạm Tiên: “Dưới cầu nước chảy trong veo. Bên câu tơ liễu bóng chiều thướt tha”…Với ý này, nếu triển khai rộng ra, có thể đủ dung lượng cho một luận văn… thạc sĩ!
  Ở bài viết này, tôi không đi theo hướng đó, mà đơn giản hơn nhiều, muốn thống kê xem bao nhiêu loài cây, bao nhiêu loài con đã xuất hiện trong Truyện Kiều. Nhớ lại cách đây mười mấy năm, trong một lần về thăm Tiên Điền, một vị lãnh đạo chủ chốt của huyện Nghi Xuân đã dẫn tôi đi thăm bảo tàng, khu mộ và cả khu đất xưa kia dựng căn nhà của cụ Nguyễn Du. Vị cán bộ huyện nói ý định sẽ xây dựng một không gian văn hoá Nghi Xuân, trong đó có Vườn Kiều: “ Chúng tôi sẽ tổ chức, vận động những người yêu Truyện Kiều xa gần cùng chung sức, trồng đủ 127 cây mà cụ Nguyễn Du đã kể tên trong Truyện Kiều”. Lúc đó tôi hết sức cảm phục vị cán bộ này. Tôi là một người thuộc Kiều từ nhỏ, cũng đã viết nhiều bài nghiên cứu về Truyện Kiều, nhưng thú thực, tôi không biết được trong Truyện Kiều có nhắc đến bao nhiều loài cây. Thế mà một cán bộ huyện lại nắm được điều đó! Tôi dự định có dịp sẽ tỷ mẩn thống kê lại để xem 127 thứ cây đó là những cây gì, nhưng rồi thời gian tôi đi, vẫn chưa làm được điều đó, cho đến năm 2008 -2009, khi Đài Tiếng nói Việt Nam nhờ tôi chủ trì tiểu mục Đố Kiều, tôi liền ra câu đố để cùng thính giả cả nước thống kê số cây, cỏ trong Kiều. Câu đố đó như sau:

"Cỏ non xanh tận chân trời"
"Cành lê trắng điểm", liễu thời thướt tha
"Hải đường lả ngọn" bên nhà
"Sen tàn, cúc lại nở hoa" khắp miền...
Nơi nào cỏ đã mọc lên?
Bao loài cây đã có tên trong Kiều?

    Khi đọc các bài giải đố, tôi nhận ra rằng, với một độc giả bình thường, việc thống kê tên các loài cây đã được nhắc trong Truyện Kiều không hề đơn giản, bởi ngoài những cây cối thông thường như sen, lựu, liễu, hải đường... còn rất nhiều cây khác, hoặc nằm trong điển tích, hoặc không có ở nước ta, hoặc là có ở nước ta nhưng lại không mang tên gọi thông thường...Và trong nhiều trường hợp, một số tên cây xuất hiện trong Truyện Kiều lại với một nghĩa khác, ví dụ như xuân, huyên để chỉ cha, mẹ; bình bồng để chỉ trôi giạt...Tuy nhiên, theo câu đố thì hai cây xuân, huyên cũng như bình (bèo), bồng ( một loại cỏ) phải được kể tên. Bởi thế, phần lớn các bài giải đố đã thống kê thiếu những tên cây cỏ trong Truyện Kiều. Ví dụ: Thính giả Lê Đình Lư ( Quảng Xương, Thanh Hoá) chỉ kể được 8 lòai cây ; bác Phùng Văn Viêng ( Thiệu Hoá, Thanh Hoá) chỉ tính được 9 loài cây;  bác Ngô Nguyên Ngần ( Cầu Giấy, Hà Nội): trên hai chục loài; bác Khuất Văn Trân ( Thạch Thất, Hà Nội): 27 loài; bác Hoàng Văn Mùi ( Gia Viễn, Ninh Bình): 30 loài; bác Nguyễn Văn Hà ( Hưng Hà, Thái Bình): trên 40 loài; bác Nguyễn Văn Thông( Hiệp Hoà, Bắc Giang): 41 loài; bác Lê Văn Thiện ( Vinh, Nghệ An): 46 loại;bác Nguyễn Ngọc Thạch ( Thành phố Ninh Bình): 49 loài và bác Nguyễn Đình Song (Ý Yên, Nam Định): 49 loại...vân vân.
  Với quan niệm tương đối cho rằng cỏ là một loài cây, gai góc cũng là một loài cây, bác Lê Văn Thiện thống kê được 46 loài cây đã nhắc tên trong Truyện Kiều. Thế thì đáp số cuối cùng là bao nhiêu loài? Xin thưa: khoảng 55 loài. Sau đây là bảng thống kê ( theo thứ tự thống kê của bác Lê Văn Thiện và bổ sung thêm 9 loài nữa): Liễu, Đào, Trúc, Mai, Quỳnh, Dao, Trà Mi, Hải Đường, Lê, Cúc, Lan, Huệ, Sen, Dâu, Lựu, Cỏ, Tùng, Phù Dung, Hạnh, Mận, Phong, Thuần, Phỉ, Xuân, Huyên, Tử (cây Thị), Hoè, Bồ, Phần, Dương, Bách, Bèo, Rêu,  Mẫu Đơn, Quế, Đằng ( cây Mây), La (một loại dây leo), Lau ( tức Vi Lô), Cải, Quýt, Ngô Đồng, Sắn, Bìm, Mướp Đắng, Cỏ Tranh, Gai Góc, Bồ Đề, Trà, Chàm, Đào Tiên, Bồng , Hồng, Hoàng Lương ( Kê), Bối, Cát( sắn dây) .
    Để dễ nhớ, tôi xin thống kê lại theo thể thơ lục bát:
Trà mi, mai, trúc, liễu, đào
Phù dung, hạnh, mận, quỳnh, dao, quế, hồng
Huệ, lan,dâu, lựu, cỏ, bồng
Đằng, la, phần, tử, ngô đồng, xuân, huyên,
Mẫu đơn, cải, quýt, sắn, bìm
Hoàng lương, mướp đắng, đào tiên, bồ đề
Cỏ tranh, gai gốc, bồ, hoè
Bèo, rêu, phong, phỉ, lau, lê, Hải đường
Trà, chàm, cúc, bối, bách, dương
Sen, tùng, cát nữa: tổng chừng năm lăm (55)!
    Như vậy chúng ta đã thống kê được 55 loài cây đã nhắc tên trong Truyện Kiều, và coi đây là con số tương đối, chứ không phải bất di bất dịch. Dù sao, đây là một lượng thông tin rất đáng ghi nhận đối với những ai say mê và thích tìm hiểu Truyện Kiều. Như vậy, con số 127 loài cây mà vị cán bộ huyện Nghi Xuân nói cách đây chừng 20 năm là con số… bịa, nhiều gấp hơn hai lần con số thực!
   Cũng tương tự, chúng tôi đã ra câu đố sau đây để cùng thính giả cả nước tìm số con trong Truyện Kiều:

Lầu không én liệng xập xè
Dưới trăng, quyên đã gọi hè bao đêm
Có cây, ắt sẽ có chim
Có hoa, ong bướm sẽ tìm đến thôi
Cỏ, cây biết hết tên rồi
Bao loài động vật xin mời chỉ ra!

      Khi ra câu đố này, chúng tôi vẫn đinh ninh rằng, lời giải sẽ dễ hơn tháng trước đố về cây cỏ trong Truyện Kiều, nhưng khi đọc các bài giải của thính giả gửi về, mới biết rằng, riêng việc thống kê các con vật đã xuất hiện trong Truyện Kiều cũng không đơn giản, nên kết quả thống kê cũng khá chênh lệch nhau: Bác Phí Hữu Tiệp ( thành phố Việt trì, Phú Thọ) chỉ thống kê được 12 loài vật; cụ Nguyễn Văn Nho ( Sơn Dương, Tuyên Quang): 28; thính giả Hồ Bảo (Cẩm Thuỷ, Thanh Hoá): 30 ; Phùng Văn Viêng ( Thiệu Hoá, Thanh Hoá): 33; Nguyễn Ngọc Quỳnh ( Vũ Thư, Thái Bình): 38 ; bác Lê Văn Thiện ( Vinh, Nghệ An): 38 ; Nguyễn Ngọc Thường (Thái Thuỵ, Thái Bình): 39 ; Nguyễn Bá Trĩ ( Hậu Lộc, Thanh Hoá) : 40; Nguyễn Đình Quất (Quế Võ, Bắc Ninh): hơn 40; Hoàng Văn Mùi ( Gia Viễn, Ninh Bình): 45;  Nguyễn Đình Song (Ý Yên, Nam Định): 49;  Đỗ Liên Tiếp ( Lương Tài, Bắc Ninh):51. Đặc biệt thính giả Trần Tất Trừ ( Quảng Xương, Thanh Hoá) tính được đến 62 loài vật!
   Đọc kỹ các bài giải đố chúng tôi thấy rằng, những thính giả thống kê dưới 40 loài vật, nói chung là thiếu, còn các thính giả thống kể trên 40 loài, “mỗi người một vẻ” nhưng  vừa thiếu, vừa thừa. Ví như bác Nguyễn Đình Song thống kê được 49 loài nhưng thừa mất 9 loài, vì bác cho rằng Chim hôm, chim lồng, chim trời, bóng chim là những loài chim, cá nước, cá chậu là những loài cá… đồng thời bác tính Ma, Quỷ là những loài vật. Một số thính giả coi chữ Tuất trong Truyện Kiều là chỉ con chó, với nghĩa lân tuấtchó hàng xóm. Chúng tôi biết rằng, những thính giả này đã dựa vào một bản Truyện Kiều mà sự giảng giải và hiệu đính không chính xác. Sự thật lân tuấtthương xót, chứ không liên quan con vật nào ở đây cả! Nhưng người thừa nhiều nhất là thính giả Trần Tất Trừ, vì bất cứ một từ nào mà trùng tên một loài vật, ông đếu tính là loài vật, ví như nông, khách, báo, trai, chồn, giang…! Theo chúng tôi, tính thế này là không chính xác, bởi đây là hiện tượng đồng âm dị nghĩa.
   Thế thì trong Truyện Kiều bao nhiêu loài vật đã được nhắc tên?
Như số đông thính giả, chúng ta thống nhất rằng, có ba danh từ riêng nhưng trùng tên các con vật thì ta coi như con vật được nhắc tên, đó là Đồng Tước ( sẻ ), Khuyển ( chó), Ưng ( chim ưng) và xem con tằm và con ngài là hai con khác nhau (xét về mặt hình dáng), chúng ta thống kê được các con vật như sau ( dựa vào bảng thống kê của bác Lê Văn Thiện và bổ sung 10 loài còn sót):
1: Thuý, 2: Uyên,3: Phượng, 4: Loan, 5: Rồng, 6: Bằng, 7: Hổ (hùm), 8: Sói, 9: Ruồi, 10: Hạc, 11: Oanh (Chim Anh), 12: Lươn, 13: Khuyển, 14: Ưng, 15: Mèo, 16: Gà, 17: Trâu, 18: Ngựa, 19: Tằm, 20: Ngài, 21: Ve, 22: Vượn, 23: Rắn, 24: Dẽ, 25: Chuồn, 26: Sư Tử, 27: Kiến, 28: Nhện, 29: Thỏ, 30: Ác, 31: Én ( hay Yến), 32: Quyên (Đỗ Quyên), 33: Bướm ( Hồ Điệp), 34: Ong, 35: Nhạn, 36: Mồi (Đồi Mồi), 37: Chim ( nói chung), 38: Cá ( nói chung), 39: Vược ( hoặc Hức), 40: Chim Xanh, 41: Chim Hồng, 42: Con ghẻ, 43: Huỳnh (Đom Đóm), 44: Giao Long ( Rồng Cá), 45: Chim Tinh Vệ, 46: Kình ( Cá Voi), 47: Ngạc (Cá sấu), 48: Ngần ( một loài cá rất trắng), 49: con Điêu.
   Như vậy là chúng ta đã thống kê được 49 loài vật, tuy nhiên đây không phải là con số bất di bất dịch, ví dụ như chữ Ngần chẳng hạn, cụ Bùi Kỷ thì coi là một loài cá, nhưng cụ Đào Duy Anh chưa đồng ý. Hay như chữ ghẻ, cũng có thể coi là một bệnh chứ không tính là con! Bởi vậy chúng ta nên nói một cách tương đối rằng gần 50 loài vật đã được cụ Nguyễn Du nhắc tên trong Truyện Kiều. Phải chăng đây cũng là một kết luận có ý nghĩa đối với những ai thích tìm hiểu Truyện Kiều?
    VT
2013
                                                                
                                                                     














LẠI NÓI VỀ CỘI NGUỒN CỦA HỌ NGUYỄN TIÊN ĐIỀN

GS Nguyễn Đình Chú (thứ 2 bên phải) chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo khoa học về Nguyễn Du


GS.NGND NGUYỄN ĐÌNH CHÚ
     
 Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ  là cụ Nguyễn Nhiệm (Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành
( Phương Trạch hầu) , Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm (Xuân Quận công) thân phụ của Nguyễn Du. Dựa vào thành quả của gia phả học trong đó có sách Gia phả: khảo luận  và thực hành của Nguyễn Đức Dụ xuất bản ở Sài Gòn năm 1973;  bài viết của nhà cổ học Trần Huy Bá vốn dựa vào bản tộc phả họ Nguyễn Đình tại Hà Nội được Giáo sư- Tiến sĩ Nguyễn Đình Hòa, Giám đốc  Trung tâm Việt học Đại học đường Souther Illinoi (Hoa Kỳ) cho mượn đọc trước ngày ông xuất ngoại (1947) đăng trên Tạp chí Tổ quốc số ra ngày 11 năm 1975, sách Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh với công cuộc khai sáng miền nam nước Việt cuối thế kỷ thứ XVII của Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền in lần  thứ ba , NXB Văn học 1999; một số  tộc phả trong đó có sách Cương quốc công Nguyễn Xí: tộc phả - Di huấn – Phụ lục in năm 1993 và Cương quốc công Nguyễn Xí : tộc phả - Di huấn- Phụ lục ( Tái bản và nâng cấp) in năm 2013 của Đại tộc  Thái Sư Cương Quốc công Nguyễn Xí tại xã Nghi Hợp, Nghi Lộc Nghệ An;  tộc phả Dòng họ Nguyễn Đình gốc Nghi Hợp, chuyển cư  tới Phật Não ( Thạch Hà, Hà Tĩnh), Lam Vỹ  (Thiệu Hóa , Thanh Hóa), Thụy Khuê – Văn Tân -  Quán La ( Hà Nội) do ông Nguyễn Đình Chính trưởng chi Văn Tân phụng soạn… tại Hội thảo khoa học Nguyễn Du: tiếp cận từ góc độ văn hóa do Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học  quốc gia Hà Nội cùng Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh phối hợp tỗ chức năm 2013, trong tham luận có nhan đề Nói thêm về cỗi nguồn họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du, tôi đã làm rõ cỗi nguồn này chính là họ Nguyễn Đình Thái Sư Cương quốc công Nguyễn Xí tại làng Thượng  Xá , huyện Chân Phúc xưa, nay là xã Nghi Hợp thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An vốn gốc  làng Cương Giản thuộc huyện Nghi Xuân, cách Tiên Điền khoảng ba bốn cây số. Đời cụ Nguyễn Hợp  đưa con là Nguyễn Hội từ Cương Gián sang  sống ở làng Thượng Xá làm nghề muối, sau đó trở lại sống với con trưởng ở quê cũ. Còn  cụ Nguyễn Hội ở lại và sinh hai con là Nguyễn Biện, Nguyễn Xí. Đặc biệt là Nguyễn Xí trở thành  Người hai lần khai quốc” và khai mở ra một dòng họ vào loại vẻ vang nhất trên đất Lam Hồng ở thời trung đại: 59 vị Quốc công và Quận công, 179 vị tước hầu, 141 vị tước bá, 7 vị tước nam, 39 vị tước tứ. Từ đó mà  các nhà gia phả học đã nói Nguyễn Du là cháu đời thứ 14 của Nguyễn Xí. Riêng tôi còn muốn giải thích hiện tương cụ Nguyễn Nhiệm trong khi tránh sự truy đuổi của triều đình   Trịnh sao không chạy trốn về đâu mà lại về Tiên Điền? Ấy  vì chính đây là nơi quê cha đất tổ. Và gia đình đã một phen tan cửa nát nhà phải chạy trốn như thế mà sao chỉ  mấy đời sau đã phát triển thành một dòng họ được ca dao ghi nhận: “ Bao giò ngàn Hống hết cây/ Sông Rum hết nước họ nàyi hết quan”nếu không thuộc đại tộc Nguyễn Đình Thái Sư Cương Quốc công Nguyễn Xí vẻ vang như thế cả trên hai phương diện võ công là chính nhưng văn nghiệp cũng không kém.
       Nay tôi xin nói rõ thêm  riêng về nhánh họ của cụ Nguyễn Nhiệm. Đây là nhánh họ thuộc Đại chi Hai của Đại tộc Cương Quốc công Nguyễn Xí mà vị Tổ chi là Nguyễn Trọng Đạt, con trai thứ mười của Cương Quốc công Nguyễn Xí, sinh trưởng trên đất Thăng Long có gia đình định cư tại làng Cảo Dương,và Canh Hoặch thuộc huyện  Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, Hà Đông cũ, nay là xã Hồng Dương và xã Canh Hoặch thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội. Năm 1445, Nguyễn Trọng Đạt với tước hiệu Tín đạt đại phu,, dưới triều Lê Nhân Tông, theo cha vào nam đánh giặc Chiêm Thành quấy phá biên cương, bắt được nhiều tù binh đưa về giam tại xứ Bàu Ổ, huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, quận Hoan Châu, nay thuộc phường Nghi Hương, thị xã Cửa Lò, Nghệ An. Nguyễn Trọng Đạt được triều đình sai cai quản trại tù binh  và để đảm nhiệm trọng trách này, ông  đưa một bộ phận gia đình về đấy vốn là quê hương của mình. Ông đã có công lớn trong việc cảm hóa, Việt hóa tù binh Chiêm, kể cả một số tù binh Minh trước đó  từ thân phận tù binh thành một chi họ dưỡng tử Nguyễn Chế của Đại tộc Nguyễn Đình.  Từ chức tươc Tín đạt đại phu, ông được phong tước Tán trị công thần, Bắc quân đô đốc lịch trung dinh thượng tướng quân Linh  quận công. Con ông là Nguyễn Đình Thủy vẫn ở lại Canh Hoặch, sinh  Nguyễn Đình Địch đậu Thám hoa năm 1481. Nguyễn Đình Địch sinh Nguyễn Doãn Toại.  Nguyễn Doãn Toại bị bệnh phong, phải làm lều ngoài đồng để ở. Nhưng được cô NguyễnThị Hiền con gái Tiến sĩ  Nguyễn Bà Kỷ , người cùng họ tộc, tự nguyện ra sống làm bạn với Nguyễn Doãn Toại và có con với nhau , đặt tên là Đạm sau đổi thành Thiến, thông minh trác lạc. Nguyễn Thiến được cậu là Nguyễn Đức Lượng hết lòng dìu dắt dạy dỗ. Về sau cả hai cậu cháu cùng đậu Trạng nguyên dưới triều nhà Mạc . Năm 1527. Lê Mạc phân tranh. Nguyễn Thiến  là hậu duệ công thần nhà Lê sơ, nhưng  đậu đại khoa dưới triều nhà Mạc do đó mà cũng làm quan với nhà Mạc. Bầy giờ con cháu hậu duệ công thần nhà Lê nhiều người đã theo nhà Mạc nhưng sau đó nhận ra Mạc Đăng Dung là kẻ “ lòng chứa gian tà”, phản bội nhà Lê, nên một số lại muốn về với nhà Lê trung hưng.. Chú ruột của Nguyễn Thiến là Nguyễn Kiều đang giữ chức Đặc vận công thần kiệt tiết tướng quân kỳ bài ty tướng sỹ Yên mỹ bá  của  triều đình nhà Mạc, vì để lộ tư tưởng phù Lê, bị Mạc Đăng Doanh buộc tội chết bằng hình phát phải tự sát. Trước tình hình đó, em ông Nguyễn Kiều là Nguyễn Đình Tùng đang giữ chức Kiệt tiết tướng quân  cẩm y vệ  sự đô vệ hầu  liền bỏ  nhầ Mạc, chạy trốn vào làng Đại Não( Phật Não) huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang , thừ tuyên Nghệ An , nay là xã Thạch  Đài, huyện Thách Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Hai con của Nguyễn Kiều cũng chạy trốn về Nghệ An, ngụ tại làng Yên Lương nay là phường Nghi Thủy, thị xã   Cửa Lò và xã Vĩnh Yên, tổng Yên Trường , nay là phường Hưng Đông, thành phố Vinh. Sau vụ Nguyễn Kiều bị nhà Mạc sát hại, đến năm Tân Hơi ( 1551 ), Nguyễn Thiến đang giữ chức Thượng thư triều Mạc cũng bị bọn gian thần Phạm Quỳnh , Phạm Giao gièm pha , vu tội cùng người thông gia là Thái tế Lê Bá Lý mưu đồ phản nghịch. Do đó Mạc Phúc Nguyên đã cho quân lính đến vây bắt hai ông. Nhung được một số quần thần tin cẩn đưa lực lượng đến giải thoát hai ông, Sau đó, Lê Bá Lý thì cùng con là Phổ quận công Lê Khăc Thận đưa hơn một vạn quân, còn Nguyễn Thiến thì cũng hai con là Nguyễn  Quyện , Nguyễn Miễn đưa  bản bộ và hơn 100 người, trốn vào Thanh Hóa, đầu hàng triều đình Lê Trịnh, được vua Lê vui mừng, đãi ngộ, giao trọng trách tuyển chon nhân tài cho triều đình. Con gái đầu lòng của Nguyễn Thiến là Nguyễn Thị Ngọc Cẩm trở thành  vợ thứ năm của Trịnh Kiểm. Tiếp theo Le Bá Lý và Nguyễn Thiến, một số mưu thần dũng tướng  khác cũng bỏ Mạc theo Lê Trinh. Vương  triều Lê trung hưng  càng thêm khí thế. Trước tình hình đó, Mạc Phúc Nguyên lo sợ bèn giao vương quyền cho Mạc Kính Điển để tìm cách co cụm để giữ vững Thăng Long. Năm 1557, Nguyễn Thiến qua đời. Trịnh Kiểm thì ngày càng lấn át vua Lê. Biết được tình hình này, Mạc Phúc Nguyên cầu viện quốc sư Nguyễn Bỉnh Khiêm  từng cùng Nguyễn Thiến làm quan với triều Mạc, nhờ viết thư dụ hàng hai con của Nguyễn Thiến là Nguyễn Quyện và Nguyễn  Miễn lúc này đã theo cha về với triều đình Lê Trịnh. Nhận được thư của Nguyễn Bỉnh Khiêm vào lúc rát bất bình với Trịnh  Kiểm, lại nể lời thầy học, hai anh em đã bỏ triều đình Lê Trịnh để về với nhà Mạc . Được triều đình nhà Mạc nhiệt liết đón nhận. Nguyễn Quyện từ tước  Văn phái hầu của  Lê Trịnh được phong lên tước Thượng quận công. Nguyễn Miễn được phong tước Phù quận công. Con hai ông cũng được phong chức tước cao. Con gái trưởng của Nguyễn Quyện là Nguyễn Như Nguyệt trở thành vợ của Mạc Mậu Hợp. Nhà Mạc  hưng thịnh lại. Thanh Hóa và Nghệ An thuộc đất xây dựng cơ đồ của vương triều Lê Trịnh trở thành chiến địa  nồi da nấu thịt của chiến tranh Lê – Mạc. Trong cuộc đối đầu này của hai bên, Nguyễn Quyện trở thành người hùng. Đương thời đã có câu :  Quyện tồn Mạc tại /Quyện bại Mạc vong”( Nguyễn Quyện còn thì nhà Mạc còn / Nguyễn Quyện bại thì nhà Mạc mất)  . Nhưng đến năm 1592, Thiết chế Trịnh Tùng nối gót cha là Trịnh Kiểm mở cuộc tấn công đại qui mô vào sào huyệt của nhà Mạc tại Thừa tuyên Sơn Nam. Kết quả nhà Mạc đại bại. Nguyễn Miễn và hai con tử trận. Nguyễn  Quyện bị quân  Lê Trịnh bắt giải về  Lam Kinh Thanh Hóa. Trịnh Tùng tự tay cơỉ trói và tiếp đãi trọng vọng, không lấy  oán báo oán mà lấy ân báo ân ví có cha Nguyễn Thiến từng là trọng thần vương triều Lê Trịnh, chị là phu nhân Trịnh Kiểm. Nhưng Nguyẽn Quyện mặt đỏ bừng đã dõng dạc nói : “ Tôi vì lẽ chúa Trịnh lộng hành, coi thường vua Lê, đối xử với mọi người không ra gì và nể lời khuyên của thầy học nên về  lại với nhà Mạc, được nhà Mạc tri ân mà đối đãi rất nồng hậu cho nên tôi phải lấy ân trả ân. Nay là bại tướng, không còn kế sách  gì nưa mà trông nom đất nước. Trời đã bó nhà Mạc thì người anh hùng cũng khó thi sức” ( Đại Việt thông sứ). Không dụ hàng được, Trịnh Tùng đã sát hại ông và hai con trai là Nhuệ quận công Nguyễn Tín và Thọ Nham hầu Nguyễn Thọ. Trịnh Tùng còn ra lệnh  “tru  di diệt tộc”( giết cả họ). Sau khi có lệnh này, dòng họ Nguyễn Đình của Thái Sư Cương quốc công Nguyễn Xí tại làng Cảo Dương nay là xã Hồng Dương và làng Canh Hoặch thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội lâm vào cảnh xáo lộn. Tên họ Nguyễn Đình đổi thành Nguyễn Duy. Mộ của thủy tổ là  Điện tiền đo chỉ huy sử Cảm y vệ kiêm Tổng tri Dương võ bá Nguyễn Đình Thủy  đổi thành mộ Nguyễn Quang Kính. Mộ của Thám hoa Nguyễn Đình Địch đổi thành mộ Nguyễn Quang Cảnh. Đồ thờ bị đốt phà. Bia mộ bị  cạo xóa. Làng Cảo Dương có họ Nguyễn Đình bị yểm long mạch. Cho đến ngày  chúa Trịnh yếu thế, bà Nguyễn Thị Ngọc Cẩm con gái Trạng nguyên Nguyễn Thiến mới dẫn dân  hai làng  Cảo Dương quê cha và Canh Hoặch quê mẹ  ra Thăng Long dỡ  dinh cơ phủ chúa về dựng thành hai đinh lang và dựng từ đường thờ tổ tiên dòng họ. Về sau , ông Nguyễn Duy Tài, hậu duệ đời thứ  13 dòng họ Nguyễn Duy ( vốn là Nguyễn Đình) đã truy tầm tu lập Gia phả dòng họ Nguyễn Duy”.
      Cơn bão thế gian đã quật đổ  một nhánh họ thuộc đại tộc Nguyễn Đinh  Thái Sư Cương quốc công Nguyễn Xí  trên đất  Cảo Dương và Canh Hoặch thuộc huyện Thanh Oai, Hà Đông xưa tan tành như thế. Nhưng may thay có người con thứ ba của Nguyễn Miễn là Nam dương hầu Nguyễn Nhiệm chạy trốn được về quê cha đất tổ là Nghi Xuân , Tiên Điền để rồi lại tiếp nối  di truyền sinh học, đặc biệt là di truyền  văn hóa mà có lại một dòng họ khi nào “Sông Rum hết nước họ này hết quan”. Trong đõ    chú cháu là Nguyễn Du và Nguyễn Hành là hai trong An Nam ngũ tuyệt. Riêng Nguyễn Du là thiên tài , là danh nhân văn hóa, vào dịp 200 năm sinh(1965), được Ủy ban bảo vệ hòa binh thế giới suy tôn, kỷ niệm; vào dịp 250 năm sinh ( 2015) này lại được Unesco thuộc Liên hiệp quốc kỷ niệm trên toàn thế giới vì đã“ viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Và  “Truyện Kiều còn thì tiếng ta còn. Tiếng ta còn thì nước ta còn”(1).
                                                              Yên Hòa thư trai quí thu ( 10 -2015)


Chú thích (1)
         Bài viết này chủ yếu dựa vào thành quả nguyên cứu của cụ Nguyễn Đình Triển 90 tuổi, nguyên Trưởng ban nghiên cứu lịch sử đảng Nghệ Tĩnh, Phó quản tộc phụ trách văn hóa tộc phả Đại tộc Thái Sư Cương Quốc công Nguyễn Xí ( cùng nhiệm kỳ đó tôi là chánh quản tộc)  trong bản thảo sách  Sự tích  danh nhân lịch sử  của Đại tộc Thái Sư Cương Quốc công Nguyễn Xí  mà tôi được mời hiệu đính, biên tập,viết lời giới thiệu sẽ xuất bản trong một dịp không xa. Xin phép và cảm ơn chú Nguyễn Đình Triển đã tạo điều kiện cho tôi có thể viết bài tham luận này trong cuộc Hội thảo khoa học về Nguyễn Du của Tỉnh Hà Tĩnh và Hội Kiều học Việt Nam tổ chức nhân dịp đón nhận danh hiệu Nguyễn Du danh nhân văn hóa được Unesco  kỷ niệm trên toàn thế giới.

THƯ NGỎ

Kính thưa quý vị!      Nguyễn Du (1765-1820) là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông ...