GS Nguyễn Đình Chú (thứ 2 bên phải) chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo khoa học về Nguyễn Du |
GS.NGND NGUYỄN ĐÌNH CHÚ
Họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du lừng danh
như thế nào thì mọi người đã rõ. Nhưng gia phả họ Nguyễn này ở Tiên Điền thì
cũng chỉ cho biết vị tổ khải tổ là cụ
Nguyễn Nhiệm (Nhậm), kế tiếp theo trực hệ là Nguyễn Đức Hành
( Phương Trạch
hầu) , Nguyễn Ôn, Nguyễn Thế, Nguyễn Quỳnh, Nguyễn Nghiễm (Xuân Quận công) thân
phụ của Nguyễn Du. Dựa vào thành quả của gia phả học trong đó có sách Gia phả: khảo luận và thực hành của Nguyễn Đức Dụ xuất bản ở
Sài Gòn năm 1973; bài viết của nhà cổ
học Trần Huy Bá vốn dựa vào bản tộc phả họ Nguyễn Đình tại Hà Nội được Giáo sư-
Tiến sĩ Nguyễn Đình Hòa, Giám đốc Trung
tâm Việt học Đại học đường Souther Illinoi (Hoa Kỳ) cho mượn đọc trước ngày ông
xuất ngoại (1947) đăng trên Tạp chí Tổ
quốc số ra ngày 11 năm 1975, sách Lễ
Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh với công cuộc khai sáng miền nam nước Việt cuối thế
kỷ thứ XVII của Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền in lần thứ ba , NXB Văn học 1999; một số tộc phả trong đó có sách Cương quốc công Nguyễn Xí: tộc phả - Di huấn – Phụ lục in năm 1993
và Cương quốc công Nguyễn Xí : tộc phả -
Di huấn- Phụ lục ( Tái bản và nâng cấp) in năm 2013 của Đại tộc Thái Sư Cương Quốc công Nguyễn Xí tại xã Nghi
Hợp, Nghi Lộc Nghệ An; tộc phả Dòng họ Nguyễn Đình gốc Nghi Hợp, chuyển
cư tới Phật Não ( Thạch Hà, Hà Tĩnh),
Lam Vỹ (Thiệu Hóa , Thanh Hóa), Thụy
Khuê – Văn Tân - Quán La ( Hà Nội) do
ông Nguyễn Đình Chính trưởng chi Văn Tân phụng soạn… tại Hội thảo khoa học Nguyễn Du: tiếp cận từ góc độ văn hóa do
Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học quốc gia Hà Nội cùng Sở Văn hóa Thể thao và
Du lịch thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tĩnh phối hợp tỗ chức năm 2013, trong
tham luận có nhan đề Nói thêm về cỗi
nguồn họ Nguyễn Tiên Điền của Nguyễn Du, tôi đã làm rõ cỗi nguồn này chính
là họ Nguyễn Đình Thái Sư Cương quốc công Nguyễn Xí tại làng Thượng Xá , huyện Chân Phúc xưa, nay là xã Nghi Hợp
thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An vốn gốc
làng Cương Giản thuộc huyện Nghi Xuân, cách Tiên Điền khoảng ba bốn cây
số. Đời cụ Nguyễn Hợp đưa con là Nguyễn
Hội từ Cương Gián sang sống ở làng
Thượng Xá làm nghề muối, sau đó trở lại sống với con trưởng ở quê cũ. Còn cụ Nguyễn Hội ở lại và sinh hai con là Nguyễn
Biện, Nguyễn Xí. Đặc biệt là Nguyễn Xí trở thành “Người
hai lần khai quốc” và khai mở ra một dòng họ vào loại vẻ vang nhất trên đất
Lam Hồng ở thời trung đại: 59 vị Quốc công và Quận công, 179 vị tước hầu, 141
vị tước bá, 7 vị tước nam, 39 vị tước tứ. Từ đó mà các nhà gia phả học đã nói Nguyễn Du là cháu
đời thứ 14 của Nguyễn Xí. Riêng tôi còn muốn giải thích hiện tương cụ Nguyễn
Nhiệm trong khi tránh sự truy đuổi của triều đình Lê Trịnh sao không chạy trốn về đâu mà lại về
Tiên Điền? Ấy vì chính đây là nơi quê
cha đất tổ. Và gia đình đã một phen tan cửa nát nhà phải chạy trốn như thế mà
sao chỉ mấy đời sau đã phát triển thành
một dòng họ được ca dao ghi nhận: “ Bao
giò ngàn Hống hết cây/ Sông Rum hết nước họ nàyi hết quan”nếu không thuộc đại
tộc Nguyễn Đình Thái Sư Cương Quốc công Nguyễn Xí vẻ vang như thế cả trên hai
phương diện võ công là chính nhưng văn nghiệp cũng không kém.
Nay tôi xin nói rõ thêm riêng về nhánh họ của cụ Nguyễn Nhiệm. Đây là
nhánh họ thuộc Đại chi Hai của Đại tộc Cương Quốc công Nguyễn Xí mà vị Tổ chi
là Nguyễn Trọng Đạt, con trai thứ mười của Cương Quốc công Nguyễn Xí, sinh
trưởng trên đất Thăng Long có gia đình định cư tại làng Cảo Dương,và Canh Hoặch
thuộc huyện Thanh Oai, phủ Ứng Thiên, Hà
Đông cũ, nay là xã Hồng Dương và xã Canh Hoặch thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội.
Năm 1445, Nguyễn Trọng Đạt với tước hiệu Tín đạt đại phu,, dưới triều Lê Nhân
Tông, theo cha vào nam đánh giặc Chiêm Thành quấy phá biên cương, bắt được
nhiều tù binh đưa về giam tại xứ Bàu Ổ, huyện Chân Phúc, phủ Đức Quang, quận
Hoan Châu, nay thuộc phường Nghi Hương, thị xã Cửa Lò, Nghệ An. Nguyễn Trọng
Đạt được triều đình sai cai quản trại tù binh
và để đảm nhiệm trọng trách này, ông
đưa một bộ phận gia đình về đấy vốn là quê hương của mình. Ông đã có
công lớn trong việc cảm hóa, Việt hóa tù binh Chiêm, kể cả một số tù binh Minh
trước đó từ thân phận tù binh thành một
chi họ dưỡng tử Nguyễn Chế của Đại tộc Nguyễn Đình. Từ chức tươc Tín đạt đại phu, ông được
phong tước Tán trị công thần, Bắc quân đô đốc lịch trung dinh thượng tướng quân
Linh quận công. Con ông là
Nguyễn Đình Thủy vẫn ở lại Canh Hoặch, sinh
Nguyễn Đình Địch đậu Thám hoa năm 1481. Nguyễn Đình Địch sinh Nguyễn
Doãn Toại. Nguyễn Doãn Toại bị bệnh
phong, phải làm lều ngoài đồng để ở. Nhưng được cô NguyễnThị Hiền con gái Tiến
sĩ Nguyễn Bà Kỷ , người cùng họ tộc, tự
nguyện ra sống làm bạn với Nguyễn Doãn Toại và có con với nhau , đặt tên là Đạm
sau đổi thành Thiến, thông minh trác lạc. Nguyễn Thiến được cậu là Nguyễn Đức
Lượng hết lòng dìu dắt dạy dỗ. Về sau cả hai cậu cháu cùng đậu Trạng nguyên
dưới triều nhà Mạc . Năm 1527. Lê Mạc phân tranh. Nguyễn Thiến là hậu duệ công thần nhà Lê sơ, nhưng đậu đại khoa dưới triều nhà Mạc do đó mà cũng
làm quan với nhà Mạc. Bầy giờ con cháu hậu duệ công thần nhà Lê nhiều người đã
theo nhà Mạc nhưng sau đó nhận ra Mạc Đăng Dung là kẻ “ lòng chứa gian tà”,
phản bội nhà Lê, nên một số lại muốn về với nhà Lê trung hưng.. Chú ruột của
Nguyễn Thiến là Nguyễn Kiều đang giữ chức Đặc vận công thần kiệt tiết tướng quân kỳ
bài ty tướng sỹ Yên mỹ bá của triều đình nhà Mạc, vì để lộ tư tưởng phù Lê,
bị Mạc Đăng Doanh buộc tội chết bằng hình phát phải tự sát. Trước tình hình đó,
em ông Nguyễn Kiều là Nguyễn Đình Tùng đang giữ chức Kiệt tiết tướng quân cẩm y vệ
sự đô vệ hầu liền bỏ nhầ Mạc, chạy trốn vào làng Đại Não( Phật
Não) huyện Thiên Lộc phủ Đức Quang , thừ tuyên Nghệ An , nay là xã Thạch Đài, huyện Thách Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Hai con
của Nguyễn Kiều cũng chạy trốn về Nghệ An, ngụ tại làng Yên Lương nay là phường
Nghi Thủy, thị xã Cửa Lò và xã Vĩnh
Yên, tổng Yên Trường , nay là phường Hưng Đông, thành phố Vinh. Sau vụ Nguyễn
Kiều bị nhà Mạc sát hại, đến năm Tân Hơi ( 1551 ), Nguyễn Thiến đang giữ chức
Thượng thư triều Mạc cũng bị bọn gian thần Phạm Quỳnh , Phạm Giao gièm pha , vu
tội cùng người thông gia là Thái tế Lê Bá Lý mưu đồ phản nghịch. Do đó Mạc Phúc
Nguyên đã cho quân lính đến vây bắt hai ông. Nhung được một số quần thần tin
cẩn đưa lực lượng đến giải thoát hai ông, Sau đó, Lê Bá Lý thì cùng con là Phổ
quận công Lê Khăc Thận đưa hơn một vạn quân, còn Nguyễn Thiến thì cũng hai con
là Nguyễn Quyện , Nguyễn Miễn đưa bản bộ và hơn 100 người, trốn vào Thanh Hóa, đầu
hàng triều đình Lê Trịnh, được vua Lê vui mừng, đãi ngộ, giao trọng trách tuyển
chon nhân tài cho triều đình. Con gái đầu lòng của Nguyễn Thiến là Nguyễn Thị
Ngọc Cẩm trở thành vợ thứ năm của Trịnh
Kiểm. Tiếp theo Le Bá Lý và Nguyễn Thiến, một số mưu thần dũng tướng khác cũng bỏ Mạc theo Lê Trinh. Vương triều Lê trung hưng càng thêm khí thế. Trước tình hình đó, Mạc
Phúc Nguyên lo sợ bèn giao vương quyền cho Mạc Kính Điển để tìm cách co cụm để
giữ vững Thăng Long. Năm 1557, Nguyễn Thiến qua đời. Trịnh Kiểm thì ngày càng
lấn át vua Lê. Biết được tình hình này, Mạc Phúc Nguyên cầu viện quốc sư Nguyễn
Bỉnh Khiêm từng cùng Nguyễn Thiến làm
quan với triều Mạc, nhờ viết thư dụ hàng hai con của Nguyễn Thiến là Nguyễn
Quyện và Nguyễn Miễn lúc này đã theo cha
về với triều đình Lê Trịnh. Nhận được thư của Nguyễn Bỉnh Khiêm vào lúc rát bất
bình với Trịnh Kiểm, lại nể lời thầy
học, hai anh em đã bỏ triều đình Lê Trịnh để về với nhà Mạc . Được triều đình
nhà Mạc nhiệt liết đón nhận. Nguyễn Quyện từ tước Văn phái hầu của Lê Trịnh được phong lên tước Thượng quận công. Nguyễn Miễn được phong
tước Phù
quận công. Con hai ông cũng được phong chức tước cao. Con gái trưởng
của Nguyễn Quyện là Nguyễn Như Nguyệt trở thành vợ của Mạc Mậu Hợp. Nhà
Mạc hưng thịnh lại. Thanh Hóa và Nghệ An
thuộc đất xây dựng cơ đồ của vương triều Lê Trịnh trở thành chiến địa nồi da nấu thịt của chiến tranh Lê – Mạc.
Trong cuộc đối đầu này của hai bên, Nguyễn Quyện trở thành người hùng. Đương
thời đã có câu : “Quyện tồn Mạc tại /Quyện bại Mạc vong”( Nguyễn Quyện còn thì nhà
Mạc còn / Nguyễn Quyện bại thì nhà Mạc mất)
. Nhưng đến năm 1592, Thiết chế Trịnh Tùng nối gót cha là Trịnh Kiểm mở
cuộc tấn công đại qui mô vào sào huyệt của nhà Mạc tại Thừa tuyên Sơn Nam. Kết
quả nhà Mạc đại bại. Nguyễn Miễn và hai con tử trận. Nguyễn Quyện bị quân
Lê Trịnh bắt giải về Lam Kinh
Thanh Hóa. Trịnh Tùng tự tay cơỉ trói và tiếp đãi trọng vọng, không lấy oán báo oán mà lấy ân báo ân ví có cha Nguyễn
Thiến từng là trọng thần vương triều Lê Trịnh, chị là phu nhân Trịnh Kiểm. Nhưng
Nguyẽn Quyện mặt đỏ bừng đã dõng dạc nói : “ Tôi vì lẽ chúa Trịnh lộng hành, coi thường vua Lê, đối xử với mọi người
không ra gì và nể lời khuyên của thầy học nên về lại với nhà Mạc, được nhà Mạc tri ân mà đối
đãi rất nồng hậu cho nên tôi phải lấy ân trả ân. Nay là bại tướng, không còn kế
sách gì nưa mà trông nom đất nước. Trời
đã bó nhà Mạc thì người anh hùng cũng khó thi sức” ( Đại Việt thông sứ).
Không dụ hàng được, Trịnh Tùng đã sát hại ông và hai con trai là Nhuệ quận công
Nguyễn Tín và Thọ Nham hầu Nguyễn Thọ. Trịnh Tùng còn ra lệnh “tru
di diệt tộc”( giết cả họ). Sau khi có lệnh này, dòng họ Nguyễn Đình của
Thái Sư Cương quốc công Nguyễn Xí tại làng Cảo Dương nay là xã Hồng Dương và
làng Canh Hoặch thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội lâm vào cảnh xáo lộn. Tên họ
Nguyễn Đình đổi thành Nguyễn Duy. Mộ của thủy tổ là Điện tiền đo chỉ huy sử Cảm y vệ kiêm Tổng
tri Dương võ bá Nguyễn Đình Thủy
đổi thành mộ Nguyễn Quang Kính. Mộ của Thám hoa Nguyễn Đình Địch đổi
thành mộ Nguyễn Quang Cảnh. Đồ thờ bị đốt phà. Bia mộ bị cạo xóa. Làng Cảo Dương có họ Nguyễn Đình bị
yểm long mạch. Cho đến ngày chúa Trịnh yếu
thế, bà Nguyễn Thị Ngọc Cẩm con gái Trạng nguyên Nguyễn Thiến mới dẫn dân hai làng Cảo Dương quê cha và Canh Hoặch quê mẹ ra Thăng Long dỡ dinh cơ phủ chúa về dựng thành hai đinh lang
và dựng từ đường thờ tổ tiên dòng họ. Về sau , ông Nguyễn Duy Tài, hậu duệ đời
thứ 13 dòng họ Nguyễn Duy ( vốn là
Nguyễn Đình) đã truy tầm tu lập Gia phả
dòng họ Nguyễn Duy”.
Cơn
bão thế gian đã quật đổ một nhánh họ
thuộc đại tộc Nguyễn Đinh Thái Sư Cương
quốc công Nguyễn Xí trên đất Cảo Dương và Canh Hoặch thuộc huyện Thanh
Oai, Hà Đông xưa tan tành như thế. Nhưng may thay có người con thứ ba của
Nguyễn Miễn là Nam dương hầu Nguyễn Nhiệm chạy trốn được về quê cha đất tổ là
Nghi Xuân , Tiên Điền để rồi lại tiếp nối di truyền sinh học, đặc biệt là di truyền văn hóa mà có lại một dòng họ khi nào “Sông
Rum hết nước họ này hết quan”. Trong đõ có chú
cháu là Nguyễn Du và Nguyễn Hành là hai trong An Nam ngũ tuyệt. Riêng Nguyễn Du
là thiên tài , là danh nhân văn hóa, vào dịp 200 năm sinh(1965), được Ủy ban
bảo vệ hòa binh thế giới suy tôn, kỷ niệm; vào dịp 250 năm sinh ( 2015) này lại
được Unesco thuộc Liên hiệp quốc kỷ niệm trên toàn thế giới vì đã“ viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Và “Truyện
Kiều còn thì tiếng ta còn. Tiếng ta còn thì nước ta còn”(1).
Yên Hòa thư trai quí thu ( 10
-2015)
Chú thích (1)
Bài viết này chủ yếu dựa vào thành quả nguyên cứu của cụ
Nguyễn Đình Triển 90 tuổi, nguyên Trưởng ban nghiên cứu lịch sử đảng Nghệ Tĩnh,
Phó quản tộc phụ trách văn hóa tộc phả Đại tộc Thái Sư Cương Quốc công Nguyễn
Xí ( cùng nhiệm kỳ đó tôi là chánh quản tộc)
trong bản thảo sách Sự tích
danh nhân lịch sử của Đại tộc
Thái Sư Cương Quốc công Nguyễn Xí mà tôi được mời hiệu đính, biên tập,viết
lời giới thiệu sẽ xuất bản trong một dịp không xa. Xin phép và cảm ơn chú
Nguyễn Đình Triển đã tạo điều kiện cho tôi có thể viết bài tham luận này trong
cuộc Hội thảo khoa học về Nguyễn Du của Tỉnh Hà Tĩnh và Hội Kiều học Việt Nam
tổ chức nhân dịp đón nhận danh hiệu Nguyễn
Du danh nhân văn hóa được Unesco kỷ
niệm trên toàn thế giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét