Giáo sư Hoàng Xuân Hãn
GS
Hoàng Xuân Hãn sinh ngày 08/3/1908, quê thôn Yên Phúc, làng Yên Hồ, huyện La
Sơn, tỉnh Hà Tĩnh (nay là xã Yên Hồ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh). Thuở nhỏ Ông
học chữ Hán và chữ Quốc ngữ tại nhà với cụ thân sinh và thầy đồ người họ ngoại.
Sinh
ra và lớn lên trong một vùng ”Địa linh nhân kiệt” nên ngay từ nhỏ Ông đã được hấp
thụ và say mê văn hóa dân tộc, yêu mến sự nghiệp và các tác phẩm của các danh
nhân như Nguyễn Du, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ, Phan Huy Ích, Nguyễn Thiếp…vv.
Chính
GS Hoàng Xuân Hãn là người đầu tiên nghiên cứu và đề xuất ý kiến cho rằng đã từng
hình thành một “Hồng Sơn văn phái” ở các huyện vùng Đông Bắc Hà Tĩnh.
Mặc dù
được đào tạo bài bản thuộc nhiều lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật như
toán học, cơ học, thiên văn học, khoa học quân sự, cả tin học và vật lý nguyên
tử (1958) và cũng đã đạt được nhiều thành tựu nghiên cứu trong các lĩnh vực
trên, nhưng Ông vẫn giành nhiều thời gian
nhất cho việc nghiên cứu văn hóa dân tộc như ngôn ngữ giảng dạy tiếng Việt
trong nhà trường, lịch và lịch Việt Nam, lịch sử và văn hóa Việt Nam thời trung
đại. Đặc biệt Ông đã dành hơn 50 năm cuối đời để khảo cứu Truyện Kiều và các tác phẩm khác của Nguyễn Du. GS Hoàng Xuân Hãn
thưởng thức và khảo cứu Truyện Kiều
không chỉ với thái độ cẩn trọng, nghiêm túc của một nhà văn bản học, của một
nhà nghiên cứu lịch sử, với tâm hồn của một nhà thơ, mà còn với tư duy của một
nhà toán học và thiên văn học.
Tôi
xin kể sau đây một vài câu chuyện về GS Hoàng Xuân Hãn với việc nghiên cứu Truyện Kiều và Nguyễn Du.
Câu chuyện thứ nhất: Đó là câu chuyện
vui về bài báo Cô Kiều bị bắt đăng
trên báo khoa học số 10 tháng
10/1942. GS Hoàng Xuân Hãn và GS Nguyễn Xiển cùng nhiều nhà khoa học đã khai
trương tờ báo Khoa học vào những năm
đầu của thập kỷ 40 của thế kỷ trước nhằm truyền bá những kiến thức và tư tưởng
khoa học cho giới trẻ và quần chúng nhân dân nói chung. GS Hoàng Xuân Hãn chịu
trách nhiệm chính viết các bài về toán học, lý học, hóa học, cơ học và thiên
văn học trên tờ báo này.
Năm
1942, nhân kỷ niệm ngày giỗ của thi hào Nguyễn Du, các tờ báo ở Việt Nam đều
có nhiều bài viết về thi hào. Báo Khoa học
có vẻ “ngoại đạo” với văn chương. GS Nguyễn Xiển đề nghị GS Hoàng Xuân Hãn viết
cho báo Khoa học một bài để hưởng ứng
kỷ niệm thi hào Nguyễn Du nhân ngày giỗ của thi hào và GS Hãn đã nhận lời. Giáo
sư viết. “Trong khi các báo đang lo bài để
kỷ niệm cụ Nguyễn Du, báo Khoa học không lẽ vì 2 tiếng Khoa học mà quên một bậc
văn hào, nên tôi đã trộm phép các bạn làng văn đem hai câu Kiều ra bàn để đoán
ngày giờ lúc Cô Kiều bị bọn Khuyển Ưng bắt”. Trong số báo Khoa học ngày 10/10/2015, Giáo sư viết
bài đố Kiều với nội dung xin được
trích nguyên văn như sau:
Đêm thu gió lọt song
đào
Nửa vừng trăng khuyết,
ba sao giữa trời.
Đó là hai câu thơ tuyệt diệu của cụ Nguyễn
Du tả cái đêm, chồng vắng, Cô Kiều ra trước phật đài, rồi bị bầy côn quang “bắt
cóc”.
Tôi nay mạn phép Cụ Tiên Điền đem câu văn của
cụ mà đặt nên một câu đố trinh thám rằng: Cô Kiều bị bắt chừng vào ngày, tháng,
giờ nào ? Cửa sổ phòng Cô Kiều quay về hướng nào ?.....”
Bài báo của Giáo sư đã gây nên một
cuộc trao đổi, bàn luận và tranh luận sôi nổi, hào hứng vui vẻ trong giới khoa
học và học sinh, sinh viên hồi đó và không chỉ thu hút được giới khoa học tự
nhiên, mà còn hấp dẫn các học giả về khoa học xã hội. Cụ Hoàng U Mai, Cụ Đào
Duy Anh cũng tham gia tranh luận trên các báo Thanh nghị và báo Văn Lang.
Gần 6 tháng sau, trên tờ báo Khoa học
số 15 ra vào tháng 9/1943, bằng kiến thức toán học, thiên văn học và với tâm hồn
của một nhà thơ, Giáo sư đã lý giải một cách chính xác, đơn giản, dễ hiểu lời
giải của mình về hình ảnh trăng sao trên bầu trời đêm thu mà Nguyễn Du đã mô tả
trong hai câu Kiều nói trên để cho biết Cô Kiều bị bắt vào ngày, giờ, tháng
nào, và cửa sổ phòng Cô Kiều quay về hướng nào. Cuộc tranh luận chủ yếu xoay
quanh việc coi " ba sao giữa trời " (Tam tinh tại thiên) là sao gì ? Sao Sâm hay sao Tâm? Cụ Hoàng U
Mai và Cụ Đào Duy Anh đã chọn sao Sâm theo sách Từ Nguyên (Từ điển Trung Hoa), còn GS Hãn chọn sao Tâm (theo sách Chu Hy). Nếu chọn sao Sâm thì cũng có thể
đoán ra ngày, giờ, tháng nhưng không phù hợp với văn cảnh của câu chuyện lúc
đó. Còn chọn sao Tâm thì GS Hãn đã chứng minh rằng Cô Kiều bị bắt vào giờ Tuất,
ngày 4 tháng 9. Ở thời điểm đó, sao Tâm ở bán cầu tây nam nên cửa sổ phòng Cô
Kiều cũng quay về hướng tây nam. Trong lời bình, Giáo sư nói “ Có lẽ vào thời khắc đó Thúy Kiều nghĩ và nhớ
tới Thúc Sinh nên nhìn hình ảnh “ Nửa vừng trăng khuyết ba sao giữa trời” thành
chữ Tâm( ) là
tên của Thúc Sinh (Kỳ Tâm Họ Thúc) và cũng vì vậy coi "ba sao giữa trời"
là sao Tâm theo sách Chu Hy có phần phù hợp”.
Có lẽ
cũng chẳng nên phân định ai thắng, ai thua, ai đúng, ai sai giữa các cụ trong
cuộc tranh luận này vì đây chỉ là một chuyện vui tưởng tượng mà thôi. Nhưng rõ
ràng hai câu thơ của thi hào và câu đố vui của GS Hoàng Xuân Hãn đã gây ấn tượng
sâu sắc trong giới học sinh và sinh viên thời đó. Trong số các học sinh thời
đó, có nhiều người sau này thành đạt và trở thành những nhà thiên văn nổi tiếng
thế giới như GS Nguyễn Xuân Vinh, đã từng là một chuyên gia hàng đầu làm việc tại
Trung tâm nghiên cứu vũ trụ Nasa của Hoa kỳ; hay GS Nguyễn Quang Riệu Giám đốc
Đài Thiên văn PARIS nước Cộng hòa Pháp.
Câu
chuyện thứ 2: Đó là câu chuyện về mối tình giữa nữ sĩ tài hoa Hồ Xuân Hương
và thi hào Nguyễn Du.
Từ
1951 - 1954 GS Hoàng Xuân Hãn đã được Thư viện Quốc gia Pháp và các Thư viện
Dòng Tên ở Italia và Tòa Thánh Vatican mời dịch và làm thư mục cho các sách Hán
Nôm, đồng thời Bộ văn hóa Pháp mời GS làm Viện trưởng Viện Nghiên cứu Hán Nôm của
Pháp tại PARIS. Trong dịp này, GS đã có điều kiện tiếp cận nhiều tư liệu văn học
và lịch sử quý giá của Việt Nam
do người Pháp và các Giáo sỹ mang từ Việt Nam về. Trong số các tư liệu đó, GS
đã phát hiện 5 bài thơ bằng Hán văn thể Đường luật trong tập sách chép tay nhan
đề Đại Nam dư địa chí ước biên có ghi
tên tác giả Hồ Xuân Hương. Các bài thơ này được sáng tác trong thời gian nữ sỹ
làm vợ lẽ quan Hiệp trấn Yên Quảng (Quảng Ninh ngày nay) Trần Thúc Hiển. Sử dụng
các tài liệu còn lưu trữ trong nước như Lưu
Hương ký của Hồ Xuân Hương do Tốn Phong đề tựa và các tư liệu tìm được ở
Pháp và Italia, GS đã viết khảo luận Thiên
tình sử của Hồ Xuân Hương và đã được Nhà xuất bản Văn học in vào năm 1995.
Trong
khảo luận về Hồ Xuân Hương, GS đã kể lại những mối tình của nữ sĩ Hồ Xuân Hương
xinh đẹp, tài hoa với nhiều bạn thơ nổi tiếng đương thời như Tốn Phong và Nguyễn
Du. GS viết "Một tài tử cũng đa tình
như Nguyễn Du cũng vướng vào mạng lưới hấp trường của tài danh nữ sỹ. Trong Lưu Hương ký, Xuân Hương còn chép lại bài
thơ của nàng với đầu đề “Cảm tình cũ và trình quan Cần chánh học sỹ họ nguyễn”, với cước chú "Quan là người Tiên Điền, huyện Nghi
Xuân". (Bài dịch sau của T.T.Mại, H.T.Niêm và Nguyễn Lộc)
(Hầu,
Nghi Xuân, Tiên Điền Nhân)
Dặm khách muôn nghìn nỗi nhớ nhung,
Mượn ai tới đấy gửi cho cùng.
Chữ tình chốc đã ba năm vẹn,
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không.
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập,
Phấn son càng tủi phận long đong.
Biết còn mảy chút sương siu mấy (với)
Lầu Nguyệt năm canh chiếc bóng chong.
Trong đề mục, gọi Nguyễn Du bằng
"Hầu Cần Chánh", vậy thơ này làm sau tháng 2 năm Quý Dậu (1813). Gia
phả họ Nguyễn Tiên Điền cho biết rõ rằng mùa đông năm trước, Nguyễn Du được triệu
từ Quảng Bình về Huế; tháng 2 năm sau, được thăng Cần Chánh Điện Học Sỹ, rồi được
chọn làm Chánh sứ đi tuế cống triều Thanh. Có lẽ tin này đồn ra đến Thăng Long
đã nhắc cho Xuân Hương nhớ đến chàng xưa đã từng dan díu với mình trong ba năm,
rồi vào kinh, tuyệt không tin tức; nay được vinh dự ra đi sứ; mà mình, số phận
vẫn long đong. Nàng mừng cho Hầu, và có lẽ ước thầm Hầu còn nhớ tình xưa và khi
trên đường đi sứ qua Thăng Long, Hầu ghé bước lại nhà thăm hỏi, kẻo ở Cổ Nguyệt
Đường, nàng vẫn "năm canh chiếc bóng chong". Cuối xuân năm ấy Hầu qua
Thăng Long, các quan Bắc Thành đặt tiệc tiễn Sứ ở nhà Tiên Vũ, Hầu chợt nghe tiếng
đàn nguyệt quen tai từ một cô đầu già trong bóng tối gẩy bay ra, mà Hầu như đã
nghe hai mươi năm về trước tại nhà anh, bên Giám Hồ, đời Tây Sơn. Hầu hỏi thì
cô đầu ấy chính là người mà Hầu đã thấy trộm khi trẻ, mà là một nhạc nữ cũ
trong cung vua Lê. Hầu lòng trữ tình vẫn nặng; cho nên, ngày nay ta còn có được
kiệt tác “Bài ca người gẩy đàn đất Long Thành” bằng chữ Hán của Nguyễn Du. Với tính tình và trường hợp như thế, Nguyễn
Du lúc ấy khó mà quên được Xuân Hương. Nhưng bấy giờ Hầu là một quan to phụng sứ;
vả lại bấy giờ Hầu đã 48 tuổi, đã có gia thất. Ra làm quan triều Nguyễn, Hầu lại
giữ thái độ rất cẩn thận dè dặt. Vậy không thể đáp mộng Xuân Hương. Nhưng biết
đâu Hầu không nghĩ tới? Trong tập thơ của Hầu làm sau khi lìa Bắc Hà, có năm
bài, thể bốn câu năm chữ, dưới đầu đề “Mộng thấy hái sen” hình như nhắc nhở đến hồi dan díu với Xuân
Hương. Sau đây là lời dịch của cụ Phạm Khắc Khoan và cụ Lê Thước:
Xắn gọn quần cánh bướm,
Chèo thuyền con hái sen.
Nước hồ đầy lai láng,
Dưới nước bóng người in.
Tây Hồ hái hoa sen,
Hoa gương bỏ lên thuyền.
Hoa tặng người mình sợ,
Gương tặng người mình quen.
|
Sáng nay đi hái sen,
Hẹn cô kia đi với.
Chẳng biết đến lúc nào,
Cách hoa nghe cười nói.
Hoa sen ai cũng ưa,
Cuống sen chẳng ai thích.
Trong cuống có tơ mành,
Vấn vương không thể dứt.
Lá sen màu xanh xanh,
Hoa sen dáng xinh xinh.
Hái sen chớ đụng ngó,
Năm sau hoa chẳng sinh.
|
Bài này chứng rằng Nguyễn Du, ở Quảng Bình hay ở Huế có lúc nhớ đến một bạn
gái xưa ở cạnh Hồ Tây tại Thăng Long, đã từng hẹn hò nhau đi hái sen trên hồ,
người con gái mà Hầu "thương xót" chắc vì gặp cảnh ngộ không may. Hầu
mượn chuyện sen để kín đáo nhắc lại tình quyến luyến giữa đôi bên để luận người
ta yêu cô nàng vì xinh , vì sắc, chứ không phải vì lòng nàng, bởi lòng nàng nhiều
tình cảm, như ngó sen có nhiều tơ vướng víu. Còn Hầu: (Kiều gốc vế 2241-2242)
Tiếc thay chút nghĩa cũ càng
Dẫu lìa ngó ý, còn vương tơ lòng.
Trong những bài thơ Hán văn của Nguyễn Du còn lại, chỉ có hai bài ghi tình
đối với hai người con gái mà Hầu đã từng gặp: một người là nhạc nữ già gảy đàn
nguyệt, một người là cô gái Hồ Tây. Tuy bút chứng không muốn trỏ là ai, nhưng lấy
mọi bằng chứng mà suy, thì tôi đoán đó là Xuân Hương, có lẽ là hợp lý".
Câu chuyện thứ 3:
Ngày nay, trong khu lưu niệm đại thi hào Nguyễn Du có ngôi nhà năm gian rất đẹp
bằng gỗ quý với nhiều chi tiết chạm trổ tinh xảo. Không nhiều người biết lai lịch
đặc biệt của ngôi nhà này.
Theo Ông Nguyễn Xuân Bách, cán
bộ phụ trách nhà lưu niệm Nguyễn Du kể lại trong bài báo Đình chợ trộ đăng trên tạp chí Văn
hóa Hà Tĩnh số 75 - tháng 10 năm 2014 như sau: "Năm 1963, để chuẩn bị cho kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, Bộ văn
hóa và Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh cử một đoàn cán bộ đi khắp vùng Nghệ - Tĩnh
tìm mua một ngôi nhà với yêu cầu: ngôi nhà phải có kiến trúc đẹp, cùng thời với
cụ Nguyễn Du và có mặt bằng rộng rãi, thông thoáng đủ để trưng bày các hiện vật
và tài liệu về cuộc đời, thân thế, sự nghiệp của Nguyễn Du. Gần hai tháng trời tìm kiếm ở hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh
không thành công. GS Lê Thước lúc đó là trưởng đoàn đành viết thư sang Pháp
tham khảo GS Hoàng Xuân Hãn (người rất say mê và có nhiều công trình nghiên cứu
về Truyện Kiều và Nguyễn Du). Chỉ một thời gian sau, GS Hoàng Xuân Hãn đã gợi ý
cho đoàn về xin mua lại ngôi đình Chợ Trổ của làng mình (xã Đức Nhân, huyện Đức
Thọ ngày nay). Ngôi đình này đảm bảo đủ các yêu cầu trên. Khi đoàn đến xin nhượng
lại, các già làng không đồng tình. Nhưng rồi có thư của GS Hoàng Xuân Hãn gửi từ
bên Pháp về, làng mới đồng tình. Từ đó, phòng trưng bày các hiện vật, tài liệu
về dòng họ Nguyễn Tiên Điền và Nguyễn Du trong khu lưu niệm được ra đời". Ngôi
đình Chợ Trổ trước khi làm lớp học và làm chợ (sau năm 1945) là đình làng thờ
thần hoàng làng là ông Hoàng Trừng, đậu Hoàng Giáp khoa Kỷ Tỵ (1499), làm quan
dưới triều Lê Thánh Tông đến chức Đông Các Đại Học Sỹ, Lễ bộ Tả Thị Lang là chắt
ngoại cụ Nguyễn Biểu. GS Hoàng Xuân Hãn là cháu đời thứ 14 của Ông Hoàng Trừng.
Một điều thú vị và hy hữu là cháu đời thứ 14 của thành hoàng làng đã giới thiệu
và thuyết phục dân làng đem ngôi đình vốn là nơi thờ cụ tổ mình hiến cho nhà nước
làm nhà lưu niệm Nguyễn Du. Điều này chứng tỏ GS Hoàng Xuân Hãn đã yêu quý và
kính trọng Nguyễn Du đến mức nào. Và phải chăng, GS cũng muốn một công trình kiến
trúc đẹp như vậy xứng đáng để thờ hoặc lưu niệm các danh nhân văn hóa của dân tộc
chứ không phải để họp chợ?
Câu chuyện thứ tư:
Khoảng từ năm 1943 -1945, để tránh máy bay Nhật
ném bom Hà Nội, GS Hoàng Xuân Hãn đã theo trường Đại học Hà Nội vào giảng dạy ở Thanh Hóa. Vào thời kỳ này GS đã tranh thủ đi
khảo cứu khắp vùng Thanh - Nghệ -Tĩnh, và đã phát hiện được nhiều di tích lịch
sử quý báu.
Cuối năm 1946, trong thời kỳ
toàn quốc kháng chiến, một làn sóng người tản cư và việc tiêu thổ kháng chiến
diễn ra rầm rộ ở các đô thị, nhất là ở Hà Nội. Nhiều sách báo được bán làm giấy
loại khắp đường phố Hà Nội và các tỉnh thành, trong đó có nhiều sách quý. GS
Hoàng Xuân Hãn đã dành nhiều thời gian để tìm mua lại và cứu vớt được nhiều
sách quý về lịch sử và văn học Việt Nam thời trung đại.
GS Hoàng Xuân Hãn khảo cứu và
hiệu đính Truyện Kiều với quan điểm
"tầm nguyên", nghĩa là cố gắng tái tạo lại Truyện Kiều gần với bản gốc của Nguyễn Du đã bị thất lạc. Sách Kiều
tầm nguyên của GS gồm có 5 phần:
- Phần thơ Kiều phiên âm ra quốc
ngữ từ bản Kiều Nôm mà GS đã dựng lại.
- Phần hiệu đính, chú thích và
khảo dị viết dưới các câu thơ.
- Phần dịch ra Quốc ngữ bản Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân.
- Phần bảng chỉ vần Kiều.
- Phần so sánh 8 bản Kiều mà
GS đã dùng để hiệu đính, sau khi đánh giá các bản còn lại đều chép ra từ các bản
đó.
8 bản đó là:
1. Bản Nôm Duy Minh Thị -1872.
2. Bản Quốc ngữ của Trương
Vĩnh Ký -1875.
3. Bản Nôm Kiều Oánh Mậu -
1902.
4. Bản Quốc ngữ của Phạm Kim Chi -1917.
5. Bản Nôm Huế ( Microfilm của
EFEO)
6. Bản Nôm Liễu Văn Đường -
1871.
7. Bản Nôm Thịnh Mỹ Đường -
1879.
8. Bản Nôm Thịnh Văn Đường
-1882.
Trong 8 bản trên, trong Kiều tầm nguyên, sẽ chỉ in một bản duy
nhất là bản Duy Minh Thị (1872), vì GS đánh giá nó gần bản gốc nhất.
Với một thái độ nghiêm túc, tỉ
mỉ, khách quan; bằng phương pháp thống kê và văn bản học; với vốn chữ Hán Nôm
uyên thâm; với những hiểu biết về tiếng Việt và đặc biệt tiếng Nghệ Tĩnh cách
đây hơn 250 năm, GS đã khảo cứu hiệu chỉnh bản Kiều Nôm và bản Kiều Quốc Ngữ
theo ngôn ngữ người Việt thời Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều. Vì vậy, khi đọc Kiều
tầm nguyên bằng quốc ngữ ta thấy nhiều từ khác xa với bản quốc ngữ của nhiều
tác giả hiện nay. Tôi xin dẫn chứng một số trường hợp:
- Câu 28 : "Sắc đành Trọi một, tài đành họa hai". Chữ Trọi ở đây có nghĩa là duy nhất, một
mình. Đây là một từ cổ mà ngày nay ta chỉ còn dùng trong từ ghép Trơ trọi.
- Câu 77 :" Sắm sanh Níp tử xe châu". Chữ Níp là từ cổ ở vùng Nghệ Tĩnh chỉ cái
rương, cái hòm làm bằng gỗ. Ở Nghệ Tĩnh thì cái quan tài được gọi là cái hòm, tức
là cái Níp. Còn chữ Nếp trong các bản quốc ngữ hiện nay thì
không có nghĩa là cái hòm hay cái quan tài mà chỉ có 3 nghĩa : gạo Nếp, Nếp gấp của giấy hoặc vải và nề Nếp gia phong mà thôi.
- Câu 636 :" Ngưng hoa Bụng thẹn, trông gương mặt dày". GS
đã thay chữ Bóng trong các bản Quốc
ngữ hiện nay bởi chữ Bụng đúng nghĩa
và đúng văn cảnh hơn; và đó cũng là hai cách đọc của cùng một chữ Nôm.
- Câu 1265 :" Búi tình đòi đoạn vò tơ". GS
đã thay chữ Mối tình bởi Búi tình, phản
ảnh đúng tâm trạng của Thúy Kiểu hơn và cũng là hai cách phiên âm của một chữ
Nôm.
- Câu 1951 : Quản chi Trên gác dưới duềnh. GS đã thay cụm từ Lên thác xuống ghềnh bởi cụm từ Trên các dưới duềnh hợp với văn cảnh và
tâm trạng của Thúc Sinh lúc chia tay Thúy Kiều và cũng phù hợp với cách phiên
âm của chữ Nôm. Nhà thơ Vương Trọng đã phân tích vì sao Ban văn bản Truyện Kiều của Hội Kiều học Việt Nam đã
chọn câu 1951 là Quản chi Trên gác dưới
duềnh được đăng trên báo Văn nghệ số
34, ngày 22 tháng 8 năm 2015. Tôi không thể kể hết hàng trăm ví dụ như trên
trong Kiều tầm nguyên của GS Hoàng
Xuân Hãn.
Khoảng năm 1995-1996, nhà báo
Thụy Khuê ở Pháp đã phỏng vấn GS Hoàng Xuân Hãn về Kiều tầm nguyên. Trong một thời gian dài, trên đài phát thanh RFI của
Pháp, cứ vào các buổi tối cuối tuần , GS Hoàng Xuân Hãn lại trả lời phỏng vấn
và nói chuyện về Kiều tầm nguyên với
thính giả.
Rất tiếc là trong khi GS chưa hoàn tất bản thảo
và in ấn Kiều tầm nguyên thì GS đã đột
ngột ra đi vào ngày 10 tháng 3 năm 1996 tại Paris. Bản thảo Kiều tầm nguyên của GS Hoàng Xuân Hãn với
hơn 500 trang viết tay của GS, kết quả của hơn 50 năm nghiên cứu Truyện Kiều của GS chưa được ra mắt giới
nghiên cứu và bạn đọc trong dịp Việt Nam và toàn thế giới kỷ niệm 250 năm ngày
sinh của thi hào Nguyễn Du theo nghị quyết
của UNESCO.
Chúng tôi mong muốn Bộ Văn
hóa, Viện Văn học, viện Hán Nôm và Hội Kiều Học Việt Nam giúp đỡ gia đình GS
Hoàng Xuân Hãn ở Paris sớm cho Kiều tầm
nguyên được ra mắt giới nghiên cứu và độc giả trong và ngoài nước./.
HOÀNG XUÂN KHÓA
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét