Bói Kiều là một hiện tượng sinh hoạt
"văn hoá - tâm linh" vô cùng kỳ lạ ở nước ta, và tin chắc rằng trên
thế giới khó tìm được một tác phẩm văn học nào có được hiện tượng đó, khi người
ta dùng từng câu, từng dòng để đoán về tương lai, vận mệnh của con người. Người
phản đối thì coi đó là chuyện mê tín, người ủng hộ thì coi là chuyện tâm linh,
mà đã là tâm linh thì không thể giải thích được bằng kiến thức khoa học thông
thường. Mê tín, hay tâm linh? Điều đó tôi không có ý định phân giải trong bài
viết ngắn ngủi này, mà chỉ muốn chuyển tới bạn đọc một số mẩu chuyện bói Kiều
đã thu gom được.
Những người thích bói Kiều thường nhắc tới sự kỳ diệu của tác phẩm này,
có những điều không thể giải thích nổi. Ví như câu thứ 1954 trong "Truyện Kiều" là " Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai",
ứng với năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ giữa ta và Pháp ký kết, nước ta tạm thời
phải chia đôi! Mặc dù câu thơ trên ở trong Truyện Kiều, là lời của Thúc Sinh
nói rằng mình đành phải đoạn tuyệt Thuý Kiều trong nỗi đau xót, nhưng nếu viết
về nước ta đành phải chịu cảnh chia đôi vào năm 1954, thì khó có một câu thơ
nào hay hơn "Cắn răng bẻ một chữ đồng
làm hai".
Từ yêu đến tin rồi tín ngưỡng Truyện Kiều như tín ngưỡng một loại tôn
giáo, nhiều người tìm thấy ở tác phẩm này niềm an ủi, sẻ chia, và xa hơn, là dự
báo trước những chuyện trong tương lai. Không ai nói được đích xác hiện tượng
bói Kiều có từ khi nào, nhưng biết là có từ rất lâu, có lẽ ngay sau khi "Truyện Kiều" chiếm được niềm
tin yêu của đông đảo bạn đọc. Trước Cách mạng tháng Tám khá lâu, chuyện bói Kiều
đã phổ biến trong dân gian, và nhà văn Ngô Tất Tố đã đưa vào trong tiểu thuyết "Lều chõng". Khi Vân Hạc đi
thi, vợ là cô Ngọc muốn biết trước kết quả nên đã dùng "Truyện Kiều" để bói và được bốn câu:
Bó thân về với triều đình
Hàng thân lơ láo, phận mình ra đâu
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn, ra cúi công hầu mà chi?
"Cứ trong ý tứ mà suy", cô Ngọc biết chồng sẽ hỏng thi, nếu
như đậu thì sẽ làm quan, là người của triều đình, trái với ý của bốn câu thơ
trên. Vân Hạc học giỏi, khi thi hỏng, rất buồn, nhưng vợ không buồn và lựa lời
an ủi chồng rằng chẳng qua vì cái số, đã được báo trước trong "Truyện Kiều".
Nhà thơ Tế Hanh đã mê Kiều từ thời còn học sinh. Ông bảo rằng, muốn hiểu
được cái hay của Truyện Kiều thì khi đọc cần thắp hương, để khói hương đưa người
về cõi tâm linh thanh tịnh. Đã nhiều lần ông bói Kiều và cảm thấy rất nghiệm.
Ông kể rằng, năm 1942, ông thi tú tài phần thứ nhất, lần đầu thi vào tháng 5, lần
hai vào tháng 8. Lần đầu, sau khi đậu phần thi viết, bước vào thi vấn đáp ông bắt
thăm được câu hỏi về Napoléon, ông trả lời lúng túng bị bà giáo người Pháp tên
là Alada cho điểm thấp nên bị trượt. Trước khi thi lần hai, Tế Hanh bói Kiều,
đúng hai câu:
Khi nên cảnh cũng chiều người
Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
Ông rất mừng, nhưng vẫn chăm chỉ
ôn tập vì nhớ tới lời nhắc nhở của Nguyễn Du là "Xưa nay nhân định thắng
thiên cũng nhiều".
Lần thi ấy, sau khi đậu thi viết, vào phần vấn
đáp, ông lại bắt được câu hỏi về Napoléon như lần thứ nhất. Do lần trước bị hỏng,
về nhà, ông đọc lại thật kỹ lịch sử về Napoléon, nên lần này trả lời không những
đầy đủ mà còn hết sức khúc chiết, được thầy giáo người Pháp Bourotts cho điểm rất
cao. Thế là lần ấy ông đỗ, hoàn toàn ứng với câu "Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau"!
Nhiều khi bói Kiều được những câu dễ hiểu, nhưng có khi được những câu mới
đọc qua chẳng thấy gì liên quan tới điều mình muốn biết, cần phải luận mới hiểu
được nội dung. Cũng theo nhà thơ Tế Hanh, ông Phạm Liệu, thân sinh nhà thơ Phạm
Hầu, quê ở xã Trường Giang, huyện Diên Phước, Quảng Nam, từng làm Thượng thư dưới
triều Nguyễn. Hồi con đi học, ông ra Huế dự kỳ thi hương. Trước lúc lên đường
đi thi, ông bói Kiều, đúng hai câu:
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Kỳ thi ấy ông đỗ thủ khoa, ứng với
chính danh thủ phạm. Kỳ diệu hơn nữa,
về sau ông làm Thượng thư bộ Binh, ứng với Dưới
cờ gươm tuốt nắp ra!
Trong hồi ký của Trần Trọng Kim có kể lại một
chuyện liên quan tới bói Kiều. Năm 1944, vì sợ bọn Pháp bắt mất một số người
tin cậy của mình, Nhật đã bố trí cho Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Trần Văn
Ân, Đặng Văn Ký... "sơ tan" sang Singapore một thời gian. Khi các ông
ở Singapore, do ăn uống quá kham khổ, thuốc thang không có, bệnh tật liên miên,
nên ai cũng muốn trở về nước. Một hôm, Dương Bá Trạc nói vời mọi người rằng sắp
được về rồi, mọi người hỏi nguốn tin ở đâu, thì ông Trạc chỉ vào hai câu Kiều vừa
bói được:
Việc nhà đã tạm thong dong
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.
Ông Kim cùng những người khác không tin, không ngờ ít hôm sau mọi người
được về nước thật, chỉ trừ ông Dương Bá Trạc đã "về" theo nghĩa khác,
vì ông mất ở Singapore!
Bà Minh Mị, đã ngoài 90 tuổi, với biệt
danh Hà Thành độc giả, một người thuộc
lòng Truyện Kiều từ nhỏ và cũng đã từng bói Kiều khi còn học sinh. Bà kể rằng,
lần ấy sau khi thi xong, vì nóng lòng muốn biết kết quả nên đã bói Kiều. Kết quả
được hai câu:
Có cổ thụ, có sơn hồ
Cho nàng ra đó giữ chùa, chép kinh.
Bà không hiểu ý nghĩa ra sao, được
thân sinh bà kết luận rằng bà sẽ đậu. Bà đọc hai câu thơ rồi hỏi lại:" Thế
sau này con đi tu hở bố?". Ông cụ cười và giải thích rằng:" Không phải
thế! Trước khi bói, con đã khấn xin để biết được kết quả kỳ thi này của con,
nên không thể hiểu như vậy được, Trong "Truyện Kiều", hai câu này nói rằng Hoạn Thư chấp nhận nguyện vọng
của Thuý Kiều "Rắp đem mệnh bạc xin
nhờ cửa không", thì ở đây người ta cũng chấp nhận nguyện vọng của con,
tức là con đỗ thi". Và đúng như vậy, kỳ thi đó bà trúng tuyển.
Sinh thời, nhà thơ Gia Ninh kể chuyện đi công tác cùng nhà thơ Xuân Diệu
ở tỉnh Nghệ An trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Vì phương tiện giao thông
không có, hai ông phải đi bộ liên tục nên xế chiều muốn dừng lại nghỉ ở một làng
cạnh quốc lô. Bà con người làng khuyên các ông nên đi thêm mấy cây số nữa lại
nghỉ, vì ở đây máy bay Pháp thường bắn phá. Hai ông đang chần chừ chưa biết quyết
định ra sao, thì Xuân Diệu mở túi dết, lấy "Truyện
Kiều" ra bói, và được hai câu:
Rạng ra gửi đến xuân Đường
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.
Hai nhà thơ quyết định đi ngay vì ba chữ thúc, vội giục, đó là chưa kể chàng ninh gia là chàng Gia Ninh nói ngược. Đi được chừng ba bốn cây số ngoảnh lại thì thật
hú vía: máy bay Pháp đang bắn phá ngôi làng hai nhà thơ định nghỉ lại. Xuân Diệu
nói với Gia Ninh:" Cô Kiều cứu chúng mình đấy!"
Hồi tôi còn nhỏ, nghe kể chuyện ở quê có một
học sinh học thật xuất sắc, trên đường đi thi bị chết đuối, mất tích, người ta
nhắn tin về cho ông bố, nhưng để ông đỡ choáng, họ bảo rằng anh ta bị cảm hiện
đang nằm ở trạm xá nọ. Khi nghe người đưa tin nói vậy, ông bố nói:" Đừng
giấu tôi nữa, thằng con tôi chết đuối rồi! Thôi, để tôi đi tìm xác con
tôi". Sau khi thi thể kẻ xấu số đã
được tìm thấy và chôn cất tử tế, người ta hỏi sao ông biết trước chuyện này,
ông bảo rằng, khi con đi thi, ông bói Kiều và được hai câu:
Đành thân cát lấp, sóng vùi
Tiếc công cha mẹ, thiệt đời thông
minh".
Và ông đã thốt lên: "Thôi còn chi nữa mà mong/ Đời người
thôi thế là xong một đời", nên sẵn sàng đón tin dữ.
Hồi phong trào sinh đẻ có kế hoạch mới được vận động, một ông chồng vốn
nhà con một, vợ sinh hai lần được hai "thị mẹt", đứa thứ hai đã đi học,
thế mà không chửa đẻ gì thêm để cho ông hy vọng người "nối dõi tông đường",
trong khi ông vẫn trẻ khoẻ, vợ ông vẫn phây phây ra chứ đau ốm gì đâu. Vốn dòng
nhà Nho, ông mê "Truyện Kiều"
và thỉnh thoảng có bói Kiều, nhân đi vợ đi họp đại hội phụ nữ toàn xã, ông ở
nhà tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo mới, thắp nén hương thơm và đem "Truyện Kiều" ra bói.
Ông ngồi xếp bằng, đối diện với
bát hương, hai tay chắp lại, kẹp "Truyện
Kiều" ở giữa và nâng lên khấn:
" Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều...tên con
là...năm nay ...tuổi. Chúng con mới được hai mụn con gái, muốn có đứa con trai
nối dõi tông đường, nhưng hơn mười năm nay, không hiểu sao vợ con không chửa đẻ
gì cả. Cho con xin một quẻ để biết được nguyên nhân. Lạy vua Từ Hải, lạy vãi
Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều, hãy cho con bốn câu, từ câu thứ... trang bên phải."
Xong, ông mở ra đọc:
Bây giờ tình mới tỏ tình
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai
Chước đâu có chước lạ đời
Người đâu mà lại có người tinh ma.
Khi luận được nội dung lời bói, mặt ông đỏ lên như gấc chín vì giận,
nhưng vốn con nhà nho, đợi đến tối hôm đó, khi cơm nước xong xuôi, ông mới hỏi
vợ:
- Bà trốn tôi đi đặt vòng từ khi nào?
Bà vợ hết sức ngạc nhiên vì chuyện đó bà giấu ông và đã xẩy ra ngót chục
năm trời, sao ông nay ông mới động tới.
- Ba tưởng giấu được tôi mãi chăng? Ba giấu
nhưng "Truyện Kiều" mách
tôi. Bà đọc đi ... Rồi ông gí bốn câu thơ trên vào sát măt bà, sát đến nỗi bà
phải ngửa người lùi ra mới đọc được. Bà chả hiểu gì ý nghĩa, ông giải thích:
- "Thôi thôi đã mắc vào vành
chẳng sai", nghĩa là bà đã đặt vòng, có nơi gọi vòng là vành, phải không?
Đặt vòng là cái "chước lạ đời", bà giấu tôi để làm việc đó "là
người tinh ma", bà hiểu chưa?
Bà vợ không nói lại một câu nào, chỉ thầm nghĩ, không ngờ trong quyển "Truyện Kiều" hàng ngày ông vẫn
đọc lại chứa đựng những khả năng kỳ diệu như thế?
Không hiểu những chuyện bói Kiều tôi
vừa thu gom được, độ tin cậy đến đâu?
VƯƠNG TRỌNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét