LTS: Với những hoạt động tích cực của Hội Kiều học Việt Nam và Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh trong các cuộc làm việc gần đây với lãnh đạo tỉnh, ngày 22/8/2018, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành một văn bản rất quan trọng, xin báo để các hội viên mừng. Đây là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của Hội từ nay đến 2020.
VẦNG TRĂNG VỚI THÚY KIỀU
Theo quy luật tự nhiên, số đêm
có trăng cũng chỉ xấp xỉ với đêm tối trời, thế nhưng trong Truyện Kiều, phần lớn
các đêm đều có trăng. Nếu như tôi thống kê không nhầm, thì chỉ có ba đêm không
trăng, đấy là đêm Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân, đêm cùng Mã Giám Sinh ở
trú phường và đêm Hoạn Thư đánh ghen bắt hầu đàn. Trường hợp thứ nhất và thứ
ba, có thể do chuyện xẩy ra trong đêm
khuya, lại ở trong nhà, nên vầng trăng không xuất hiện. Trường hợp thứ hai, là
đêm Thúy Kiều bị lão Mã hại đời trinh tiết, tác giả muốn mô tả một đêm kinh
hoàng, tăm tối “ Trời hôm mây kéo tối sầm/ Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương”
dẫn đến “ Tiếc thay một đóa trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về”, và “ Đời
người thôi thế là xong một đời” nên không cho vầng trăng nào xuất hiện?
Trong Truyện Kiều, với Thúy Kiều
đêm đầu tiên là đêm sau ngày mấy chị em đi chơi thanh minh. Đêm đó Thúy Kiều ám
ảnh bởi Đạm Tiên, manh nha mối tình với
chàng Kim và vầng trăng đã mấy lần xuất hiện với các tên gọi khác nhau, khi thì
“Gương nga chênh chếch dòm song”, “Một mình tựa ngắm bóng nga”; khi thì “Chênh
chênh bóng nguyệt xế mành”…với chức năng chủ yếu là dẫn dắt Thúy Kiều vào cõi mộng.
Thứ hai là khi cả nhà đi dự “sinh
nhật ngoại gia”, Thúy Kiều tận dụng cơ hội lẻn sang thăm chàng Kim hai lần. Đi
lần thứ nhất không thấy có trăng, vì ban ngày, nhưng lần thứ hai thì “Nhặt thưa
gương giọi cầu cành” khi nàng “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Và vầng
sáng nhất, quan trọng nhất trong đêm ấy là vầng trăng chứng kiến thề bồi: “ Vầng
trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai mặt một lời song song”.
Một tháng ròng theo Mã Giám Sinh
đi từ Bắc Kinh về Lâm Tri, tất nhiên thế nào cũng có đêm có trăng, và tác giả
đã dành cho một câu tả cảnh, tả tình hay vào loại bậc nhất của Truyện Kiều:
Dặm khuya ngất tạnh, mù
khơi
Thấy trăng mà thẹn những
lời non sông.
Khuya, ngồi trên xe ngựa đi đường nhìn lên trời, mây mù như tan ra cho vầng
trăng hiển hiện.Ôi, vầng trăng thề thốt vẫn còn kia, mà mình đã phụ lời với người
tình, mắt gặp lại trăng mà lòng thẹn với lòng!
Ở Lâm Tri nàng buồn, chiều hôm ra
ngồi trước lầu Ngưng Bích, nhìn ngang màn trời chợt nhận ra “ Vẻ non xa, tấm
trăng gần, ở chung”. Trong tự nhiên thì trăng xa hơn núi, nhưng trong khoảnh khắc
ấy, núi non như đẩy xa ra, vầng trăng như kéo gần lại, để cả hai thứ ấy cùng nằm trong một bình diện.
Rồi nàng mắc lừa Sở Khanh, trốn
đi trong “Đêm thu khắc lậu, canh tàn/ Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương”,
hình như cảnh ấy muốn báo một chuyện hãi hùng sắp diễn ra, là Sở Khanh trốn đi,
Tú Bà bắt nàng về, đánh đập, buộc nàng phải chịu tiếp khách. Nhưng, “nghề chơi
cũng lắm công phu”, Thúy Kiều phải học nghề như bao cô gái khác, điều oái oăm
là cái mụ Tú Bà “nhờn nhợt màu da”ấy lại chọn đêm trăng sáng để dạy nghề lầu
xanh! Nàng đã thực sự trở thành gái lầu xanh, dù có “vui gượng kẻo là” thì cũng
phải tiếp khách, cũng phải biết “cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa” để
chiều khách làng chơi, kể cả khi với Thúc Sinh “nguyệt hoa, hoa nguyệt não
nùng”, chuốc rượu, nối thơ “ khi gió gác, khi trăng sân”…Rồi cũng vào một đêm
trăng “ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương”, Thúc Sinh đã đánh lừa Tú Bà để
hoàn lương Thúy Kiều. Sắc, tài đã cho nàng Kiều thắng kiện, dẹp cơn thịnh nộ của
Thúc Ông, về chung sống “huệ lan sực nức một nhà” với Thúc Sinh. Thúy Kiều
khuyên chồng về Vô Tích thăm vợ cả là Hoạn Thư, Thúc Sinh lên đường, nàng Kiều
đưa tiễn, “ Vầng trăng ai xẻ làm đôi” một nửa ở lại với gối chiếc Thúy Kiều, một
nửa theo dặm trường chàng Thúc!
Một năm xa, một năm chờ đợi, vào
một đêm thu, nàng nhìn lên bầu trời thấy vầng trăng khuyết và ba ngôi sao, tưởng
ai tạc lên giữa không gian chữ TÂM, là chữ cuối của Thúc Kỳ Tâm, tên của Thúc
Sinh, để nàng thêm nhớ chàng. Nhưng chính đêm trăng đó bọn Khuyển Ưng đã đến
đánh thuốc mê bắt nàng đưa về Vô Tích theo mưu đồ đánh ghen của Hoạn Thư. Kể
chi chuyện nàng bị Hoạn Thư hành hạ bắt hầu đàn, kể chi chuyện nàng ra ở Quan
Âm Các, chỉ nhớ chuyện nàng trốn khỏi Quan Âm Các cũng vào một đêm trăng “ Cất
mình qua ngọn tường hoa/ Lần đường theo ánh trăng tà về tây”.Trăng cứu Thúy Kiều
ra khỏi Quan Âm Các thì “cữ cuối xuân / bóng hoa rợp đất, vẻ ngân ngang trời” lại
đưa Bạc bà đến Chiêu Ẩn Am để mang tai họa cho nàng, bắt nàng trở lại lầu xanh,
chỉ có khác là không phải ở Lâm Tri mà ở Châu Thai.
Một đêm “gió mát trăng thanh”
thật đẹp là đêm vị anh hùng Từ Hải xuất hiện, sau đó cứu nàng ra khỏi vũng lầy
lầu xanh, nhưng rồi chính Từ mắc mưu Hồ Tôn Hiến, phải chết đứng. Bị ép gả cho
thổ quan, nàng Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn khi “mảnh trăng đã gác
non đoài”…Nhưng rồi chính Thúy Kiều được hai ngư phủ cứu, đưa về Thảo Am sống
cùng Giác Duyên, “ Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng” chờ ngày đoàn viên “
trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”. Như thế, vầng trăng đã hành trình theo cuộc
đời của Thúy Kiều. Và ta chắp lại thành thơ:
TRĂNG TRONG KIỀU
Phải chăng người đẹp trên trời
Kết thân người đẹp cõi đời từ lâu
Mà Kiều, đêm ở nơi đâu
Chị Hằng tìm đến bên nhau tự tình?
Vui buồn sau hội thanh minh
Gương nga, bóng nguyệt hiện hình sẻ chia
Thương nàng giấc mộng não nề
Cớ sao trăng lại đưa về Đạm Tiên?
Đầu cành trăng dọi nhà bên
Xăm xăm băng lối, chàng Kim sững sờ
Rõ ràng mở mắt còn ngờ
Vầng trăng chứng kiến tóc tơ thề bồi.
Chưa sum họp, đã chia phôi
"Thấy trăng mà thẹn những lời non
sông"
Theo xe đi một tháng ròng
Vầng trăng thương cảm nỗi lòng Kiều nhi.
Gặp trăng mấy độ Lâm Tri
Trăng gần Ngưng Bích, xa gì lầu xanh
" Bóng nga thấp thoáng dưới
mành"
Trăng ơi sao để Sở Khanh hiện về?
Lừa nàng lẩn trốn canh khuya
Gió cây trút lá thảm thê trăng ngàn
Tú Bà đã đắt mưu gian
Chọn khi nguyệt sáng dạy nàng nghề chơi!
Bẽ bàng chi bấy người ơi
Nửa rèm tuyết ngậm, trăng soi bốn bề
Câu thơ, nét vẽ não nề
Chiều người trong nguyệt tái tê cung đàn.
“Khi gió gác, khi trăng sân”
Với chàng Thúc biết bao lần hàn huyên
Dưới trăng hè vẳng tiếng quyên
Thang lan rủ trướng rõ thêm ngọc ngà
Biệt ly đau dặm đường xa
Vầng trăng xẻ nửa, quan hà chia hai.
“Tóc thề đã chấm ngang vai”
Ba sao, trăng khuyết tên ai giữa trời
Trốn Quan Âm các ra ngoài
Trăng tà soi bóng dẫn người về tây.
Khách biên đình bỗng một ngày
Trăng thanh gió mát sang đây thăm Kiều
Ngờ đâu oan nghiệt còn theo
Non đoài trăng gác đêm gieo Tiền Đường
Giác Duyên nhà cỏ đón nàng
Chay lòng dưa muối, gió trăng cõi thiền
Để rồi đón cảnh đoàn viên
Trăng tàn mà lại sáng lên không ngờ.
Trăng trời khi tỏ, khi mờ
Trăng Kiều tròn, khuyết - bao giờ cũng
trong
Như nàng nước đẩy theo dòng
Mà nguồn trinh bạch giữ lòng vẹn nguyên
Trăng, người hội ngộ bao phen
Nỗi niềm trần thế thấu lên cõi trời!
GIÁO SƯ HOÀNG XUÂN HÃN VỚI NGUYỄN DU VÀ “TRUYỆN KIỀU”
LẠI BÀN VỀ NƠI AN TÁNG ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU
LTS: Mai Văn Hoan là Nhà giáo, Nhà thơ, Nhà Kiều học được nhiều người yêu mến. Riêng về Truyện Kiều, Nguyễn Du anh đã xuất bản nhiều công trình khảo cứu sắc sảo. Xin giới thiệu với bạn đọc một bài viết mới của anh theo thư đặt bài của Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh.
Một số bài viết đề cập đến nơi an táng Đại thi hào Nguyễn Du gần đây chủ yếu dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền. Gia phả ghi: “Năm Canh Thìn (1820) Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (16 tháng 9 năm 1820). Nguyễn Du mất ở Kinh, lúc đầu chôn ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Được tin Nguyễn Du qua đời, quan lại ở Kinh nhiều người làm câu đối phúng viếng, hết lời ca ngợi tài năng, đức độ của ông: Nhất viện cầm tôn nhân ký khứ/ Đại gia văn tự thế thanh truyền (Rượu đàn đầy viện người đi vắng/ Văn tự hơn đời tiếng dội vang); Nhất đại tài hoa, vi sứ, vi khanh, sinh bất thiểm/ Bách niên sự nghiệp, tại gia, tại quốc, tử do vinh (Một kiếp tài hoa, làm sứ, làm khanh, sinh chẳng thẹn/ Trăm năm sự nghiệp, ở nhà, ở nước, chết còn vinh). Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh”. Tuy nhiên, không phải điều gì được chép trong gia phả đều chính xác. Vì vậy, việc sử dụng những ghi chép trong gia phả cần phải hết sức thận trọng. Về địa điểm an táng Nguyễn Du Gia phả ghi “lúc đầu chôn ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên là thiếu chính xác. Xã An Ninh thuộc huyện Hương Trà chứ không phải thuộc huyện Quảng Điền. Thời Gia Long gọi tỉnh Thừa Thiên là doanh (dinh) Quảng Đức. Khi Nguyễn Du mất, Minh Mạng lên ngôi mới được 7 tháng nên ông chưa thể thay đổi gì nhiều. Mãi đến 12 năm sau (1832) ông mới đổi doanh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên và chia thành 6 huyện: Quảng Điền, Phong Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc (thời Gia Long chỉ có 3 huyện: Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang). Điều đó chứng tỏ Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền do người đời sau chứ không phải là người cùng thời với Nguyễn Du biên soạn nên việc nhầm lẫn không thể tránh khỏi. Riêng địa danh An Ninh là chính xác. An Ninh nguyên là một xã hình thành trước khi xuất hiện sách Ô Châu cận lục (1555), đến thế kỷ XVIII mới tách làm hai: An Ninh thượng và An Ninh hạ. Trong sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn có ghi: “An Ninh hạ và An Ninh thượng thuộc tổng An Ninh, huyện Hương Trà”. Dựa vào địa danh xã An Ninh, nhà nghiên cứu Hồ Đắc Duy đã thực hiện công trình Đi tìm nơi an táng của thi hào Nguyễn Du tại Huế (thuyết trình ngày 16-11-2008 tại Cung Văn hóa Lao động TPHCM và đăng trên báo Văn hóa Phật giáo số 131 ngày 16/6/2011). Ông Hồ Đắc Duy về Huế khảo sát và nhờ một số người giỏi phong thủy tác nghiệp, đã đi đến kết luận: “Mộ cũ Nguyễn Du là tiền thân của ngôi mộ Thượng thư Bộ công Hoàng Hữu Thường, thuộc Bàu Đá, làng An Ninh thượng, phía tả sông Bạch Yến”. Nhưng đó cũng chỉ mới là giả thuyết, chưa có cơ sở khoa học đủ sức thuyết phục. Thật khó tin gia đình một vị thượng thư lại chọn nơi từng có kẻ yên nghỉ để an táng người thân của mình, dù thế đất ở đó có tốt đến mấy đi nữa. Sư thầy Lương Phương (năm nay đã 86 tuổi) ở chùa Phước Duyên, bên cạnh cánh đồng có ngôi mộ Thượng thư Hoàng Hữu Thường cũng xác nhận như vậy. Sư nói: Không thể! Không thể! Còn cụ Nguyễn Đức Pha (trên 70 tuổi) người làng An Ninh thượng khẳng định: Trước 1975, tục truyền khu vực nghĩa địa thuộc xã An Ninh chỉ cho phép người trong xã chôn cất, Vì vậy, theo cụ: “Nơi an táng Nguyễn Du ít có khả năng ở cánh đồng Bàu Đá, làng An Ninh thượng”.
![]() |
Thi sĩ MAI VĂN HOAN |
Một số bài viết đề cập đến nơi an táng Đại thi hào Nguyễn Du gần đây chủ yếu dựa vào Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền. Gia phả ghi: “Năm Canh Thìn (1820) Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong nhưng ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (16 tháng 9 năm 1820). Nguyễn Du mất ở Kinh, lúc đầu chôn ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên. Được tin Nguyễn Du qua đời, quan lại ở Kinh nhiều người làm câu đối phúng viếng, hết lời ca ngợi tài năng, đức độ của ông: Nhất viện cầm tôn nhân ký khứ/ Đại gia văn tự thế thanh truyền (Rượu đàn đầy viện người đi vắng/ Văn tự hơn đời tiếng dội vang); Nhất đại tài hoa, vi sứ, vi khanh, sinh bất thiểm/ Bách niên sự nghiệp, tại gia, tại quốc, tử do vinh (Một kiếp tài hoa, làm sứ, làm khanh, sinh chẳng thẹn/ Trăm năm sự nghiệp, ở nhà, ở nước, chết còn vinh). Năm Giáp Thân (1824), di cốt của ông được cải táng về quê nhà là làng Tiên Điền, Hà Tĩnh”. Tuy nhiên, không phải điều gì được chép trong gia phả đều chính xác. Vì vậy, việc sử dụng những ghi chép trong gia phả cần phải hết sức thận trọng. Về địa điểm an táng Nguyễn Du Gia phả ghi “lúc đầu chôn ở xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên là thiếu chính xác. Xã An Ninh thuộc huyện Hương Trà chứ không phải thuộc huyện Quảng Điền. Thời Gia Long gọi tỉnh Thừa Thiên là doanh (dinh) Quảng Đức. Khi Nguyễn Du mất, Minh Mạng lên ngôi mới được 7 tháng nên ông chưa thể thay đổi gì nhiều. Mãi đến 12 năm sau (1832) ông mới đổi doanh Quảng Đức thành phủ Thừa Thiên và chia thành 6 huyện: Quảng Điền, Phong Điền, Hương Trà, Hương Thủy, Phú Vang, Phú Lộc (thời Gia Long chỉ có 3 huyện: Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang). Điều đó chứng tỏ Gia phả họ Nguyễn Tiên Điền do người đời sau chứ không phải là người cùng thời với Nguyễn Du biên soạn nên việc nhầm lẫn không thể tránh khỏi. Riêng địa danh An Ninh là chính xác. An Ninh nguyên là một xã hình thành trước khi xuất hiện sách Ô Châu cận lục (1555), đến thế kỷ XVIII mới tách làm hai: An Ninh thượng và An Ninh hạ. Trong sách Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn có ghi: “An Ninh hạ và An Ninh thượng thuộc tổng An Ninh, huyện Hương Trà”. Dựa vào địa danh xã An Ninh, nhà nghiên cứu Hồ Đắc Duy đã thực hiện công trình Đi tìm nơi an táng của thi hào Nguyễn Du tại Huế (thuyết trình ngày 16-11-2008 tại Cung Văn hóa Lao động TPHCM và đăng trên báo Văn hóa Phật giáo số 131 ngày 16/6/2011). Ông Hồ Đắc Duy về Huế khảo sát và nhờ một số người giỏi phong thủy tác nghiệp, đã đi đến kết luận: “Mộ cũ Nguyễn Du là tiền thân của ngôi mộ Thượng thư Bộ công Hoàng Hữu Thường, thuộc Bàu Đá, làng An Ninh thượng, phía tả sông Bạch Yến”. Nhưng đó cũng chỉ mới là giả thuyết, chưa có cơ sở khoa học đủ sức thuyết phục. Thật khó tin gia đình một vị thượng thư lại chọn nơi từng có kẻ yên nghỉ để an táng người thân của mình, dù thế đất ở đó có tốt đến mấy đi nữa. Sư thầy Lương Phương (năm nay đã 86 tuổi) ở chùa Phước Duyên, bên cạnh cánh đồng có ngôi mộ Thượng thư Hoàng Hữu Thường cũng xác nhận như vậy. Sư nói: Không thể! Không thể! Còn cụ Nguyễn Đức Pha (trên 70 tuổi) người làng An Ninh thượng khẳng định: Trước 1975, tục truyền khu vực nghĩa địa thuộc xã An Ninh chỉ cho phép người trong xã chôn cất, Vì vậy, theo cụ: “Nơi an táng Nguyễn Du ít có khả năng ở cánh đồng Bàu Đá, làng An Ninh thượng”.
Được sự đồng ý của Hội Kiều học
VN, ngày 12-8-2017 tại trụ sở LH các Hội VHNT Thừa Thiên Huế (26 Lê Lợi) Chi
Hội Kiều học Bình - Trị - Thiên tổ chức Lễ ra mắt. Sáng hôm đó có ông Nguyễn
Dung – Phó Chủ tịch UBND tỉnh Thừa Thiên Huế cùng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ,
Nguyễn Khắc Phê, Nguyễn Đắc Xuân… đến dự. Tại đây, vấn đề nơi an táng Nguyễn Du
lại được đề cập. Ông Nguyễn Dung hứa sẽ trực tiếp chỉ đạo nhanh chóng xây dựng
khu tưởng niệm Nguyễn Du ở Huế - nơi Đại thi hào sống 12 năm, để lại nhiều dấu
ấn trong sáng tác thơ văn, đặc biệt là tập thơ Nam Trung tạp ngâm. Khu tưởng niệm Nguyễn Du sẽ là một điểm nhấn quan
trọng trong tổng thể du lịch Huế. Ngày 22/1/2018 UBND TP. Huế thể theo đề xuất
của ông Dương Phước Thu đã đăng cai tổ chức buổi tọa đàm, xác định địa điểm an
táng Nguyễn Du với sự tham gia của các nhà nghiên cứu văn hóa, lịch sử: Đỗ
Bang, Nguyễn Xuân Hoa, Trần Đại Vinh… Theo ông Dương Phước Thu, từ ngôn truyền của
người đời trước, con cháu họ Mai Khắc và bà con ở Hậu Thôn, thuộc An Ninh hạ
(nay là phường Kim Long, Tp Huế) vẫn bảo vệ chỗ an táng cụ Du Đức hầu (tước của
Nguyễn Du). Người dân Hậu Thôn vẫn coi đó là nơi linh thiêng, không ai dám xâm
phạm. Ông Mai Khắc Chính (chắt nội của cụ Mai Khắc Đôn), cho hay: “Một lần, cha
tôi (ông Mai Khắc Lưu) chỉ gò đất ở Bàu Đá nói rằng, đó là nơi an táng Du Đức hầu.
Từ đó tôi luôn tâm nguyện giữ gìn khu đất này”. Các nhà nghiên cứu có mặt trong
buổi tọa đàm hôm đó thống nhất: Việc tìm kiếm nơi từng an táng Đại thi hào
Nguyễn Du tại Huế là việc làm cần thiết, tuy nhiên những cứ liệu khoa học ấy là
chưa đủ, cần tiếp tục nghiên cứu để có thể khẳng định chắc chắn đó là nơi từng
an táng Nguyễn Du. Kết luận tại buổi tọa đàm, ông Nguyễn Đăng Thạnh, Phó Chủ
tịch UBND TP. Huế cho rằng: Buổi tọa đàm là cơ sở đầu tiên để tiến hành những
bước tìm hiểu, nghiên cứu tiếp theo. Cần tổ chức hội thảo khoa học với sự tham
gia của các nhà nghiên cứu về Nguyễn Du ở Việt Nam và nước ngoài để có thêm những
cứ liệu lịch sử; tổ chức khảo sát, thăm dò, xác định chắc chắn nơi an táng mới
tiến hành lập hồ sơ khoa học. Trước mắt, phường Kim Long cần giữ gìn, bảo vệ
khu đất đang còn nghi vấn. Buổi tọa đàm đã gây được tiếng vang. Có đến hàng
chục tờ báo đưa tin, bài (Tiền Phong, Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Dân Trí, Văn Hóa, Thừa
Thiên Huế… ). Điều đó chứng tỏ nơi an táng Đại thi hào Nguyễn Du ở Huế được
nhiều người quan tâm. Thực ra, điều ông Dương Phước Thu trình bày trong buổi
tọa đàm hôm 22 -1- 2018 đã được ông Trần Viết Điền công bố trên Tạp chí Sông
Hương với tiêu đề Người Bàu Thôn vẫn lưu
giữ “mộ vọng” cụ Nguyễn Du ở Huế (ra ngày 17-4-2015). Ông Trần Viết Điền
vốn có bà con với con cháu dòng họ Mai Khắc ở
Hậu Thôn nên biết khá tường tận dòng họ Mai Khắc và ngôi “mộ vọng”. Dòng
Mai Khắc trước nguyên là Mai Bá, học giỏi nhưng chưa có ai đỗ đạt cao. Đến đời Mai
Bá Hanh, cụ đi coi thầy, thầy phán: Nếu đổi Bá thành Khắc con cháu sẽ có người
đỗ đại khoa. Cụ Hanh bèn đổi tên lót Bá thành Khắc cho các con. Quả như lời
thầy phán, ông Mai Khắc Đôn (con trai cụ Mai Bá Hanh) thi đỗ đại khoa, sau trở
thành sư phụ và nhạc phụ của vua Duy Tân. Theo ông Mai Khắc Chính thì ông Mai
Khắc Đôn có mua 5 mẫu đất, nguyên gốc là đất công, được cấp cho một vị hoàng
thân triều Nguyễn, đã giữ nguyên ngôi “mộ vọng” của cụ Nguyễn Du và mộ của Quý
nhân Nguyễn Thị Trường (vợ vua Minh Mạng). Hơn nữa bà Quí nhân Nguyễn Thị
Trường được táng gần phần đất có “mộ vọng” của cụ Nguyễn Du, chứng tỏ gia đình
cụ Nguyễn Du đã chọn huyệt đất tốt với sự hỗ trợ của hoàng tộc triều Nguyễn.
Giả thuyết này nghe ra có cơ sở hơn giả thuyết của ông Hồ Đắc Duy, song vẫn
chưa có những bằng chứng đủ sức thuyết phục.
Việc tìm cho ra nơi an táng Nguyễn Du ở Huế một cách chính xác là điều
gần như không tưởng, còn khó hơn cả “đáy bể mò kim”. Nhưng điều có thể khẳng
định một cách chắc chắn là: Nguyễn Du mất ở Huế và an táng tại khu vực xã An
Ninh, huyện Hương Trà (nay thuộc phường Kim Long, Tp Huế). Trong khi tiếp tục
nghiên cứu, tìm hiểu, khảo sát, tổ chức hội thảo… tình Thừa Thiên Huế và Thành
phố Huế cần gấp rút lập dự án xây dựng khu tưởng niệm Nguyễn Du để dân chúng và
khách du lịch trong ngoài nước sớm được tham quan, chiêm bái.
Có thể lựa chọn một trong hai địa điểm sau:
1.Văn Thánh (thuộc Hương Long, Tp Huế) đất đai để trống còn nhiều, nơi
có phong cảnh đẹp (gần đường, gần sông Hương), nơi tôn vinh những danh tài thời
nhà Nguyễn. Nguyễn Du xứng đáng được tôn vinh ở đây. Văn Thánh cách cánh đồng Bàu Đá của An Ninh thượng (một
trong hai địa điểm được cho là nơi an táng Nguyễn Du) không xa. Nếu có khu
tưởng niệm Nguyễn Du, Văn Thánh sẽ là nơi thu hút nhiều khách tham quan.
2. Hậu Thôn, An Ninh hạ, phường Kim Long, Tp Huế, dọc theo đường Nguyễn
Hoàng, qua cầu, rẽ phải, theo đường Lý Nam Đế khoảng 400m, đến nhà thờ dòng họ
Mai Khắc ở Hậu Thôn, thẳng ra phía cánh đồng chừng 200m. Ở đây, đã có sẵn ngôi
“mộ vọng” tương truyền của Du Đức hầu (Nguyễn Du). Bên cạnh là lăng bà Nguyễn
Thị Trường (vợ vua Minh Mạng). Trong xóm Hậu Thôn có nhà thờ họ Mai Khắc. Cạnh
nhà thờ họ Mai Khắc là ngôi nhà rường khá đẹp. Trong ngôi nhà rường có điện thờ
ông Mai Khắc Đôn và bà Mai Thị Vàng (vợ vua Duy Tân)… Tất cả làm thành một cụm
di tích lịch sử khá đặc biệt. Không hiểu sao cho đến nay ngành du lịch Thừa
Thiên Huế chưa tiến hành khai thác. Thật là uổng phí!
Công trình khu tưởng niệm Nguyễn Du có thể với quy mô vừa hoặc nhỏ, song
nên có bức tượng Nguyễn Du (có thể phỏng theo bức tượng ở vườn lưu niệm Nguyễn
Du ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh thu nhỏ; ngôi mộ đơn sơ (có thể lấy nguyên
mẫu ngôi mộ khi chưa sửa sang của Nguyễn Du ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh);
văn bia khắc vắn tắt thân thế, sự nghiệp Nguyễn Du. Trồng một cây hồng tiến (do
Nguyễn Du mang giống từ Trung Quốc về), trồng vài khóm cúc, vài khóm lựu, vài
khóm trà mi… (là những thứ hoa từng được Nguyễn Du nhắc đến trong Truyện Kiều). Nếu có thể nên dựng bia,
khắc những câu thơ của Nguyễn Du viết về Huế theo lối thư pháp, như: Hương Giang nhất phiến nguyệt/ Kim cổ hứa
đa sầu (Sông Hương một mảnh trăng/
Xưa nay gợi không biết bao nhiêu mối sầu); Hương
Cần quan đạo liễu thanh thanh/ Giang bắc, giang nam vô hạn tình (Hương Cần
dương liễu rập rờn xanh/ Bến bắc, bến nam vô hạn tình… ); Cổ tự thu mai hoàng diệp lý/ Tiên triều tăng lão bạch vân trung
(Chùa xưa lá thu vàng phủ kín/ Triều cũ tăng già bạc mây bông – Vọng Thiên Thai
tự) ở các địa điểm: Công viên bên bờ bắc sông Hương, trước sân chùa Thiên Thai,
phía nam cầu Hương Cần.
Những người yêu mến, ngưỡng mộ tài năng thi ca của Đại thi hào Nguyễn Du
trong và ngoài nước rất mong sự quan tâm chỉ đạo xây dựng Khu tưởng niệm Nguyễn
Du ở Huế của lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên Huế và Thành phố Huế càng sớm càng tốt.
Huế, tháng 4-2018
Mai Văn Hoan
PHƯƠNG TIỆN GIAO THÔNG CỦA THÚY KIỀU
Nàng Kiều sống
vào những năm Gia Tĩnh Triều Minh bên Trung Quốc, tính ra cách đây ngót 500 năm.
Thời đó chưa có tàu hoả, chưa có ô tô, còn máy bay chưa xuất hiện trong ý tưởng
của các nhà khoa học. Tất nhiên phượng tiện giao thông ngày đó nghèo hơn và tốc
độ chậm hơn rất nhiều so với các phương tiện đi lại ngày nay.Vấn đề đặt ra: Thuý
Kiều đã sử dụng các loại phương tiện giao thông nào, và mỗi loại sử dụng bao
nhiêu lần.
Dọc theo cuộc
đời lưu lạc mười lăm năm của Thuý Kiều, nếu để ý nhận xét, ta sẽ thấy được nàng
sử dụng các phương tiện sau đây:
A – Đi Xe.
Đó là loại xe
do ngựa kéo khi Mã Giám Sinh đưa nàng đi từ Bắc Kinh về Lâm Tri, suốt một tháng
trời. Chúng ta kết luận được như vậy là nhờ các câu: “Đoạn trường thay, lúc phân
kỳ. Vó câu khấp khểnh, bánh xe gập ghềnh” là nói khi chia tay, còn trên đường
thì: “Đùng đùng gió giục, mây vần. Một xe trong cõi hồng trần như bay”. Và “Lâm
Tri vừa một tháng tròn tới nơi” . Đây là loại xe dùng để đón dâu, chắc là sang
trọng, nên được gọi là “xe châu”: “xe châu dừng bánh cửa ngoài . Phía trong bỗng
có một người bước ra”. Là nàng Kiều gặp mụ Tú Bà đấy. Trong mười lăm năm lưu lạc,
đây là lần duy nhất nàng Kiều đi xe.
B – Đi Ngựa:
Nàng Kiều đi ngựa hai lần. Lần đầu tiên là lẩn trốn
theo Sở Khanh:
“ Cùng nhau lẻn bước xuống lầu. Song song ngựa trước, ngựa sau một đàn”.Tất nhiên cuộc lẻn trốn không thành, bị Tú Bà bắt về tiếp khách. Lần thứ hai nàng đi ngựa sau khi bị bọn Khuyển Ưng đánh thuốc mê ; “Vực ngay lên ngựa tức thì. Phòng đào, viện sách bốn bề lửa dong”.
“ Cùng nhau lẻn bước xuống lầu. Song song ngựa trước, ngựa sau một đàn”.Tất nhiên cuộc lẻn trốn không thành, bị Tú Bà bắt về tiếp khách. Lần thứ hai nàng đi ngựa sau khi bị bọn Khuyển Ưng đánh thuốc mê ; “Vực ngay lên ngựa tức thì. Phòng đào, viện sách bốn bề lửa dong”.
C - Đi kiệu.
Theo thứ tự thời gian, ta có:
1 - Đi kiệu về nhà trọ (trú phường) với Mã Giám Sinh:
“Kiệu hoa đâu đã đến ngoài. Quản huyền đâu đã giục người sinh li”.
2 -
Đi kiệu về với Thúc Sinh sau khi thắng kiện và được Thúc Ông chấp nhận: “ Kíp
truyền sắm sử lễ công. Kiệu hoa cất gió, đuốc hồng điểm sao”.
3 -
Bạc Hạnh thuê kiệu rước vào lầu xanh ở Châu Thai: “Mượn người thuê kiệu rước nàng.
Bạc đem mặt bạc kiếm đường cho xa”.
4 -
Đi kiệu về đại bản doanh Từ Hải: “Dựng cờ, nổi nhạc lên đàng. Trúc tơ trổi trước,
kiệu vàng cất sau”.
5 -
Đi kiệu xuống thuyền Thổ Quan: “Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền. Lá màn rũ thấp,
ngọn đèn khêu cao”.
6 - Đi kiệu cùng cả nhà sau khi gặp nhau ở thảo am bên
sông Tiền Đường:
“ Kiệu hoa giục giã tức thì. Vương ông dạy rước cùng về
một nơi”.
D- Đi thuyền:
1- Đi thuyền theo bọn Khuyển, Ưng từ Lâm Tri về Vô Tích:
“ Khuyển , Ưng đã đắt mưu gian/ Vực nàng đưa xuống để an dưới thuyền/ Buồm cao
lèo thẳng cánh suyền/ Đè chừng huyện Tích băng miền vượt sang…”.
2 – Đi thuyền cùng Bạc Hạnh đến Châu Thai: “ Thuyền vừa
áp thẳng tới nơi. Bạc sinh lên trước tìm nơi mọi ngày”.
3 – Đi thuyền xuống sông Tiền Đường cùng Thổ quan: “
Kiệu hoa áp thẳng xuống thuyền. Lá màn rủ thấp, ngọn đèn khêu cao”.
4 – Đi thuyền khi được ngư phủ cùng Giác Duyên vớt lên:
“ Trên mui lướt mướt áo là. Tuy dầm hơi nước chưa loà bóng gương” .
Trong mười lăm
năm lưu lạc, Thuý Kiều có một chuyến đi bộ dài nhất là đêm trốn khỏi Quan Âm Các
đi về Chiêu Ẩn Am gặp Giác Duyên.
Để dễ nhớ nội
dung này, ta diễn ra thơ lục bát:
Người ta xe, ngựa thì vui
Thuý Kiều xe, ngựa ngậm ngùi, gian truân
Thuý Kiều xe, ngựa ngậm ngùi, gian truân
Nổi chìm trong cuộc trầm luân
Kiệu hoa sáu chuyến, ba lần lệ rơi.
- Biệt quê, thương chửa hết lời
"Kiệu hoa đâu đã đến
ngoài", giục đi
- Sắc, tài thắng kiện Lâm Tri
"Kiệu hoa cất
gió" ai bì xênh xang.
- "Mượn
người thuê kiệu rước nàng"
Châu Thai, Bạc Hạnh tìm đàng trốn mau.
- Trúc tơ trước,
kiệu vàng sau
Chờ Từ Công chỉ ít lâu, phỉ nguyền.
- Mất chồng,
Tôn Hiến ép duyên
"Kiệu hoa áp thẳng
xuống thuyền" thổ quan
- Gặp nàng
nương chốn thảo am
"Kiệu hoa giục
giã" cả đoàn về mau
- Sở Khanh kế
hiểm, mưu sâu
"Song song ngựa trước
ngựa sau " lừa nàng
- "Khuyển,
Ưng đã đắt mưu gian"
"Vực ngay lên ngựa"
mơ màng thuốc mê
- Bán mình,
nàng phải theo xe
Giám Sinh họ Mã dẫn về Lâm Tri
Thuyền thì bốn lượt từng đi:
Lần đầu mê thuốc biết gì Kiều ơi
Lần hai Bạc Hạnh nuốt lời
“Thuyền vừa áp thẳng tới nơi” bán nàng.
Lần ba, lần bốn Tiền Đường
Một thuyền oan nghiệt, cưu mang một thuyền.
VƯƠNG TRỌNG
ĐỐ KIỀU
LTS: Nhà xuất bản Hội nhà văn vừa xuất bản tập sách khảo luận, trao đổi: "Truyện Kiều, Nguyễn Du, ở trong còn lắm điều hay" của nhà thơ Vương Trọng. Đây là một tập sách rất đáng để những người yêu mến Nguyễn Du và Truyện Kiều tìm đọc. Xin giới thiệu với bạn đọc bài " Đố Kiều" đăng trong tập sách này để thưởng lãm.
Nam :
![]() |
Nhà thơ Vương Trọng đọc thơ tại Khu di tích Nguyễn Du trong Ngày thơ Việt Nam lần thứ Nhất (2003) ở Nghi Xuân-Hà Tĩnh Ảnh: Thái Văn Sinh |
Trong lịch sử văn học Việt Nam, không
có một tác phẩm nào có tính phổ cập rộng lớn như "Truyện Kiều" của Đại
thi hào Nguyễn Du. Không thể thống kê hết số người thuộc toàn bộ 3254 câu, và
khó tìm được một người dân Việt Nam mà không thuộc một vài đoạn, một vài câu Kiều.
Thế kỷ này qua thế kỷ khác, dân ta mê rồi nghĩ ra các cách thưởng thức
"Truyện Kiều". Nếu như Vịnh Kiều, Bình Kiều là công việc của giới nhà
Nho, trí thức, thì Ngâm Kiều, Lẩy Kiều, Bói Kiều... và đặc biệt là Đố Kiều được
quần chúng bình dân tham gia rộng rãi.
Đố Kiều là một trò chơi văn nghệ dân gian
dưới hình thức đối đáp, nghĩa là một bên hỏi, một bên trả lời, mỗi bên thường
là một nhóm, một đội...Có điều đặc biệt là khi chơi trò Đố Kiều, cả người ra đố
và giải đố thường dùng thơ, chủ yếu là thể lục bát, để chuyển tải ý của mình.
Trò chơi Đố Kiều xẩy ra nhiều nơi, dưới nhiều hình thức khác nhau, nhưng ở vùng
quê Nghệ Tĩnh trước đây chủ yếu diễn ra trong các cuộc hát Phường vải. Hát Phường
vải là hình thức hát đối đáp gồm hai nhóm người, một bên là các cô gái địa
phương ngồi quay xa dệt vải, một bên là các chàng trai tứ chiếng tụ tập lại. Nội
dung hát đố, giải trong hát Phường vải gồm nhiều đề tài khác nhau, nhưng Đố Kiều
luôn luôn chiếm một vị trí quan trọng. Điều khó của người giải đố là sau khi
nghe đố xong, chỉ một thời gian thật ngắn phải có lời đáp. Bởi vậy trò chơi này
đòi hỏi những người tham gia không những thuộc, hiểu "Truyện Kiều",
mà phải có phản ứng nhanh trong việc diễn tả ý của mình dưới thể thơ lục bát, đồng
thời cần có giọng ngâm, giọng hát hay. Sự thật khó tìm được một người toàn tài
như vậy, mà trong các bên dự thi Đố Kiều phải phân công nhau, để cho từng người
thể hiện sở trường của mình. Thông thường trong thành viên mỗi đội, ngoài số
nam thanh nữ tú ra, mỗi bên còn mời một vài người không phân biệt tuổi tác, thường
là cụ đồ Nho hoặc cậu tú, cậu cử...thông thuộc "Truyện Kiều", gánh
vác nhiệm vụ mách lời, các chàng trai, cô gái tốt giọng có khi chỉ là người
"phát ngôn"!
Nội dung đầu tiên các câu hát Đố Kiều quan
tâm là thử thách sự thông thuộc, hiểu biết của người giải đố về "Truyện Kiều".
Loại câu đó ấy thường ngắn gọn buộc người giải đố phải tìm một câu, một đoạn
nào đó có ý theo yêu cầu của người đố. Có khi bản thân câu đố không khó nhưng
vì phải trả lời ngay nên đến cả những nhà "Kiều học" cũng phải lúng
túng. Sau đây là một số ví dụ.
Đố: "Truyện Kiều" anh đã thuộc lòng
Chỗ nào tơ liễu mà không buông mành?
Ở câu này, người ra đố đi từ nhận xét rằng,
không ai mê Truyện Kiều mà không thuộc câu "Lơ
thơ tơ liễu buông mành/ Con oanh học nói trên cành mỉa mai", nên hễ nhắc
hai chữ tơ liễu là thế nào buông mành cũng hiện lên. Vả lại, trong
"Truyện Kiều" có rất nhiều từ liễu,
từ tơ nhưng tơ liễu thì chỉ xuất hiện ba lần, "tơ liễu mà không buông
mành" chỉ có hai lời giải:
Dưới cầu nước chảy trong
veo
Trên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha!
Và: Chừng
xuân tơ liễu còn xanh
Nghĩ mình chưa thoát khỏi vành ái ân.
Trong
trò chơi đố Kiều, loại câu đố mà lời giải là một câu Kiều là rất phổ biến:
Đố:
"Truyện Kiều" anh đã thuộc
làu
Đố anh kể được một câu năm
người?
Giải: "Này chồng, này mẹ, này cha
Này là em ruột, này là em
dâu"!
Đố:
"Truyện Kiều" anh đã thuộc
lòng
Đố anh đọc được một dòng toàn
Nho?
Giải: "Hồ công quyết kế thừa cơ
Lễ tiên, binh hậu khắc cờ tập
công"!...
Nhưng có nhiều câu đố đòi hỏi lời giải
không phải là một câu Kiều, mà là sự tổng hợp của những câu, những đoạn khác
nhau. Cái khó của lời giải loại này là không chỉ thống kê các câu Kiều, mà phải
xử lý vần để lời giải là một đoạn thơ:
Đố:
Nàng Kiều lưu lạc gian truân
Với người tình, đã mấy lần chia
tay?
Giải:
"Dùng dằng một bước một xa"
Chia tay Kim Trọng châu sa đẫm
ngày
"Chén đưa nhớ buổi hôm nay"
Chia tay chàng Thúc hẹn ngày năm
sau
"Đành rằng chờ đó ít
lâu"
Chia tay Từ Hải, lòng đau nhớ
nhà
Chiếc thân bèo nổi, sóng sa
Ba lần ly biệt xót xa, tội tình!
Cũng có khi người ra đố không chỉ dùng một
vài lời ngắn gọn, mà dùng nhiều câu dắt dẫn, đưa đẩy để giới thiệu mình hoặc để
tỏ tình, trước khi vào nội dung cần đố:
Nữ:
"Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn
lạch sông"
Phải đâu mèo mả, gà đồng
Thuyền quyên muốn hỏi
anh hùng trước sau:
"Ba quân chỉ ngọn cờ
đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào
Lâm Tri"
Thế còn một đạo làm chi?
Trai anh hùng giải được,
gái nữ nhi chịu tài.
Vì ai chiếc lá lìa cành
Khi săn như chỉ, khi
mành như tơ
Trót công rày đợi mai chờ
"Phải người trăng
gió vật vờ hay sao"
"Ba quân chỉ ngọn cờ
đào
Đạo ra Vô Tích, đạo vào
Lâm Tri"
Ắt còn một đạo binh uy
Ở nhà giữ chốn biên thuỳ
cho nghiêm
Anh hùng tỏ với thuyền
quyên
"Chữ tình càng mặn,
chữ duyên càng nồng"!
Trong loại câu đố này, người ra đố và giải
đố dùng những câu Kiều nguyên vẹn hoặc lẩy Kiều để chuyển tải ý mình, và hình
như đây không chỉ là đố giải Kiều mà là còn là đối đáp tỏ tình. Một đặc điểm
cũng cần lưu ý, là cả người đố và giải đều đùa với ngôn ngữ trong Truyện Kiều,
cụ thể ở đây là chữ Ba quân. Họ đều
thừa hiểu rằng ba quân là tiếng chỉ
quân đội nói chung, thế mà giả vờ như không hiểu để mà đố, mà giải! Chúng ta biết
rằng, trong các câu đố về Truyện Kiều, những câu đố vui đùa theo kiểu chơi chữ
chiếm một tỷ lệ rất lớn. Loại câu đố này chỉ mượn "Truyện Kiều" để
mang lại tiếng cười sảng khoái như nghe chuyện tiếu lâm. Đó là "Truyện Kiều"
của những người thích đùa"!
Hỏi:
Tiện đây hỏi một hai điều
Thiếp tôi chưa rõ nàng Kiều ai sinh?
Đáp:
"Hổ sinh ra phận
thơ đào
Công cha nghĩa mẹ kiếp
nào trả xong"
Khái ( hổ) sinh Kiều, thật
lạ lùng
Trả lời như rứa thoả
lòng em chưa?
Hỏi:
Chập chờn cơn tỉnh cơn mê
Nghe đâu Kiều có làm nghề
tráng gương?
Đáp:
"Mười lăm năm, bấy
nhiêu lần
Làm gương cho khách hồng
quần thử soi!"
Hỏi:
Nổi danh tài sắc đủ điều
Tại sao lại bảo nàng Kiều sứt
răng?
Đáp:
"Hở môi ra những thẹn
thùng"
Sứt răng nàng sợ chúng
trông, bạn cười!
Hỏi:
"Song thu đã khép
cánh ngoài"
Nàng Kiều chung chạ có
thai bao giờ?
Đáp:
"Lỡ từ lạc bước bước
ra"
"Thất kinh nàng chửa
biết là làm sao!"
Hỏi:
Đến đây hỏi khách cựu
giao
Chàng Kim đau bụng thế
nào chàng ơi?
Đáp:
"Khi tựa gối, khi
cúi đầu
Khi vò chín khúc, khi
chau đôi mày!"
Hỏi:
Sinh ra thời buổi chiến chinh
Thuý Kiều có lấy thương
binh không chàng?
Đáp:
Một tay trời bể ngang
tàng
Chồng Kiều, Từ Hải rõ
ràng thương binh!
Hỏi:
Thời Kiều đã có ngân
hàng
Em đây chưa tỏ nhờ chàng
chỉ cho?
Đáp:
"Nhà băng đưa mối
rước vào..."
Tiền nong thanh toán việc
nào chẳng xong!
Còn một nội dung đố Kiều khác nữa, là
người đố dùng những câu Kiều hoặc lẩy Kiều để đố xem ý câu đó nói gì. Với nội
dung này, người giải phải có óc suy xét, phán đoán mới giải được. Và lạ thay,
có nhiều câu có lời giải có vẻ thật chính xác! Và ở loại này, người ta thường
trả lời trực diện mà ít dùng thơ.
Đố:
"Trên vì nước, dưới
vì nhà"
"Lòng này ai tỏ cho
ta hỡi lòng".
(Là
cái gì?)
Giải: Cái máng nước (nằm giữa hai mái nhà)
Đố:
" Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời
song song".
(Là
cái gì?)
Giải:
Sáo diều đêm trăng!
Đố:
"Trăm năm tính cuộc vuông
tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch
sông?"
(Là nghề gì?)
Giải:
Người đan bồ! (khi đan bồ, phải đan đáy hình vuông trước, rồi sau đó mới đan
tròn phía trên và vật liệu đan bồ là nưá phải lầy từ rừng về).
Đố Kiều là một trò chơi tao nhã có từ
lâu đời, nhưng tiếc rằng hơn nửa thế kỷ
qua hầu như ít xuất hiện trong đời sống tinh thần của công chúng. Đó là một thiếu
sót trong công việc bảo tồn vốn cổ của ngành văn hoá.Trong hai năm 2002 – 2009,
Đài Tiếng nói Việt Nam có một chương
trình khá hoành tráng về việc đưa "Truyện Kiều" đến với thính giả bằng
cách giới thiệu toàn bộ "Truyện Kiều", từ đầu đến cuối qua giọng ngâm
của các nghệ sĩ nổi tiếng nhất, đồng thời trong mỗi đoạn có sự phân tích, giảng
giải của các chuyện gia về "Truyện Kiều". Cũng trong chương trình
này, Đài còn tổ chức mỗi tháng một câu Đố Kiều với thính giả rộng rãi trong cả
nước. Việc làm này của Đài Tiếng nói Việt Nam không những đem lại hứng thú
cho người nghe mà còn làm sống lại một trò chơi văn hoá có nguy cơ mai một.
V.T
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)
THƯ NGỎ
Kính thưa quý vị! Nguyễn Du (1765-1820) là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông ...

-
LTS: Nhân Kỷ niệm 197 năm này mất Đại thi hào Nguyễn Du (10-8 Đinh Dậu) và 13 năm ngày doanh nhân Việt Nam 13-10, Hội Kiều học Việt Nam đã...
-
Theo quy luật tự nhiên, số đêm có trăng cũng chỉ xấp xỉ với đêm tối trời, thế nhưng trong Truyện Kiều, phần lớn các đêm đều có tr...
-
Quý vị thân mến! Nhằm bảo tồn, phát huy giá trị di sản Nguyễn Du và Truyện Kiều, chúng tôi tiến hành khảo sát, điều tra qua mạng internet ...