MỘT CUỘC THI CÓ THÍ SINH LÀ “THẦY CỦA THẦY”


 
Toàn cảnh cuộc thi. Ảnh TVS
Để xem video nhấp chuột vào đây: https://www.youtube.com/channel/UCXhuA-LaCJXoWvyaGJqCr5g?view_as=subscriber

THÁI VĂN SINH 

Đó là phát biểu của Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam tại Cuộc thi bạn đọc thuộc  Kiều đợt 1, tổ chức tại Đài Tiếng nói Việt Nam vào ngày 8/6/2019. Cuộc thi do UBND tỉnh Hà Tĩnh, Hội Kiều học Việt Nam, Hội nhà văn Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam phối hợp tổ chức với sự tham gia của nhiều học giả, nhà thơ tên tuổi như: Giáo Sư Phong Lê, Giáo sư Trần Đình Sử, Giáo sư Nguyễn Đình Chú, Giáo sư Nguyễn Đình Cống, Phó Giáo Sư Nguyễn Trường Lịch, nhà thơ Hữu Thỉnh, nhà Thơ Trần Đăng Khoa, nhà thơ Vương Trọng, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, …và đông đảo những người yêu quý Nguyễn Du và Truyện Kiều đến từ: Hà Nội, Hà Tĩnh, Nghệ An, Quảng Bình, Thái Bình.

Ban Giám khảo cuộc thi. Ảnh TVS

      Ban Giám khảo cuộc thi gồm 5 người: Giáo sư Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam; Nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam; Nhà thơ Vương Trọng, Ủy viên Ban Thường vụ Hội Kiều học Việt Nam; Nhà văn Phan Trung Hiếu, Chủ tịch Hội liên hiệp VHNT Hà Tĩnh và Nhà nghiên cứu Hằng Thanh, Chánh Văn phòng Hội Kiều học Việt Nam.

Các thí sinh nhận hoa. Ảnh TVS

       Tham gia Cuộc thi bạn đọc thuộc Kiều đợt 1 có 6 thí sinh của khu vực Hà Nội trong số 26 thí sinh đã đăng ký dự thi. Đó là các ông, bà:
Nguyễn Đình Cống, sinh năm 1937, thường trú tại Kim Giang, Thanh Xuân, Hà Nội; Vũ Thị Ngọc Bích, sinh năm 1967, thường trú tại Chung cư Thanh Hà, Hà Nội; Kim Quang Phác, sinh năm 1960, thường trú tại Dịch Vọng Hậu, Cầu Giấy, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Căn, sinh năm 1943, thường trú tại  Đức Giang, Long Biên, Hà Nội; Nguyễn Văn Ấn, sinh năm 1943, thường trú tại Tương Mai, Hoàng Mai, Hà Nội; Trần Trung Tiến, sinh năm 1941, thường trú tại Thanh Xuân, Hà Nội.
Hình thức thi của cuộc thi rất đặc biệt, các thí sinh không phải đọc thuộc lòng toàn bộ Truyện Kiều mà chỉ phải đọc các đoạn Kiều bất kỳ do ban giám khảo yêu cầu và ngoài ra, phải trả lời những câu hỏi của các cử tọa trong khán phòng, Theo quy định, mỗi thí sinh có thời gian 45 phút để hoàn thành phần thi của mình. Đây là hình thức thi hợp lý vì nếu đọc thuộc cả 3.254 câu trong Truyện Kiều thì phải có một quỹ thời gian từ 3 đến 4 giờ/một thí sinh, làm cho cuộc thi mất rất nhiều thời gian và nhàm chán. Tuy nhiên hình thức thi này lại đòi hỏi rất cao ở sự sắc sảo, linh hoạt và tinh tế của Ban giám khảo.
Thật tuyệt vời là cuộc thi đã diễn ra với thành công ngoài mong đợi của Ban tổ chức. Dù diễn ra suốt một ngày ròng rã trong cái oi bức của thời tiết Hà Nội, nhưng cuộc thi đã diễn ra sôi nổi, cuốn hút tất cả mọi người trong khán phòng ngay từ phần thi của thí sinh đầu tiên cho đến phần thi của thí sinh cuối cùng. Gần như mọi người chẳng ai đong đếm về thời gian và khi kết thúc cuộc thi thì hình như ai cũng có tâm trạng còn “thòm thèm”. Một không khí trình diễn, một không khí học thuật về Truyện Kiều đầy ắp không gian và thời gian cuộc thi, kể cả giờ nghỉ gải lao giữa mỗi buổi thi.

Giáo sư Nguyễn Đình Cống tại cuộc thiẢnh TVS

 Thí sinh đầu tiên của cuộc thi là Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Đình Cống, nguyên giảng viên Đại học Xây dựng, chuyên gia hàng đầu của Việt Nam về bê tông. Với trí nhớ siêu phàm giáo sư đã đọc vanh vách bất cứ đoạn Kiều nào mà ban giám khảo và các cử tọa yêu cầu. Với một kiến thức uyên thâm, giáo sư đã trả lời chính xác từng điển cố trong Truyện Kiều, đến mức giáo sư văn học Trần Đình Sử, chuyên gia hàng đầu về Truyện Kiều phải thốt lên thán phục. Không chỉ có vậy giáo sư Nguyễn Đình Cống còn trình diễn đọc chậm, đọc nhanh và đọc ngược Truyện Kiều một cách điệu nghệ làm cử tọa cứ vỡ òa từng trận vỗ tay thán phục. Thuộc cả 3254 câu Kiều đã khó nhưng thuộc và đọc ngược Truyện Kiều thì quả là kỳ tài. Chuyện đọc ngược Truyện Kiều trong chúng ta đã nghe nói nhiều nhưng với tôi và gần như hầu hết cử tọa trong khán phòng cuộc thi thì đây là lần đầu tiên được chứng kiến việc đọc ngược Truyện Kiều. Phần thi của giáo sư Nguyễn Đình Cống đã thực sự mang lại một không khí hấp dẫn, một cảm xúc tràn trề về vẻ đẹp của Truyện Kiều.
Năm thí sinh còn lại đều “Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười”. Họ không chỉ rất thuộc Truyện Kiều mà còn “thuộc” cả cái hay, cái đẹp của câu chữ trong Truyện Kiều. Năm thí sinh này tuy mỗi người có một nghề nghiệp khác nhau: nhà giáo về hưu, kỹ sư cơ khí, kỹ sư nông nghiệp, bác sĩ, doanh nhân nhưng họ đều có một điểm chung là đam mê Truyện Kiều và đều mong muốn truyền niềm đam mê đó đến với nhiều người. Là thí sinh nữ duy nhất trong cuộc thi, chị Vũ Thị Ngọc Bích, một doanh nhân tâm sự “là người yêu Kiều nhưng tôi chưa thuộc được cả Truyện Kiều. Cách đây 3 tháng, khi xem báo thấy có cuộc phát động Cuộc thi bạn đọc thuộc Kiều thì tôi mới dành thời gian học thuộc cả Truyện Kiều dự thi, mong gửi đến mọi người một thông điệp là dầu tôi đã nhiều tuổi nhưng nhờ có đam mê nên chỉ cần 3 tháng vẫn có thể thuộc cả Truyện Kiều”. Ông Trần Trung Tiến, một bác sỹ về hưu nhưng 10 năm nay đã luôn tìm cách quảng bá Truyện Kiều cho người nước ngoài và các em học sinh. Ông đã phô tô nhiều bản Truyện Kiều bằng tiếng Anh để phát và giới thiệu cho du khách nước ngoài vào các buổi chiều khi họ đi dạo tại ở Bờ Hồ, đã tổ chức nhiều buổi nói chuyện về Truyện Kiều cho các em học sinh. 

Chụp ảnh lưu niện tại cuộc thi

          Sau một ngày thi sôi nổi, hào hứng, cuộc thi đã khép lại với kết quả rất đáng phấn khởi, cả 6 thí sinh đều đạt điểm vào dự vòng thi chung kết được tổ chức vào tháng 9/2020, nhân Đại lễ kỷ niệm 200 năm ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du tại Hà Tĩnh. Theo kế hoạch của Ban tổ chức, các cuộc thi sơ khảo đợt tiếp theo sẽ được tổ chức tại các cụm thi Hà Tĩnh, Hải Phòng, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và được kết thúc trong quý I năm 2020.
Đánh giá về cuộc thi, Nhà thơ Hữu Thỉnh, Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT Việt Nam, Chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam cho rằng đây là một cuộc thi vô cùng độc đáo, thế giới chưa hề có cuộc thi như vậy. Thí sinh rất đa dạng, có người chỉ có học vấn phổ thông, nhưng lại có cả những người là Giáo sư, Tiến sỹ, là thầy của thầy. Cuộc thi này không chỉ có ý nghĩa tôn vinh tài năng của đại thi hào Nguyễn Du mà còn vinh danh những người yêu mến truyện Kiều, thuộc truyện Kiều./.
 TVS



















































MỜI THAM GIA VIẾT BÀI

LTS. Ngày 10 tháng 11  năm 2018, Hội Kiều học Việt Nam có văn bản số 66/TB-HKHVN thông báo việc Hợp tác với tạp chí Quê hương viết bài nội dung về Truyện Kiều. Vậy xin thông báo để các hội viên và những người yêu miến Truyện Kiều tham gia.     

HỘI KIỀU HỌC VIỆT NAM
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

          Số: 66/TB-HKHVN                               Hà Nội, ngày 10 tháng 11  năm 2018
V/v: Hợp tác với tạp chí Quê hương
  viết bài nội dung về Truyện Kiều                            
  
Kính gửi:     - Các Ủy viên BCH Hội Kiều học Việt Nam
- Hội viên Hội Kiều học Việt Nam
- Các bạn yêu mến Truyện Kiều

Sau thành công các chuỗi sự kiện kỷ niệm 250 năm ngày sinh Nguyễn Du  và chào mừng Quyết định của UNESCO vinh danh ông là Danh nhân văn hóa thế giới, và hướng tới Kỷ niệm 200 năm ngày mất Nguyễn Du (1820 - 2020), ngày 01/11/2018 đại diện Hội Kiều học Việt Nam đã làm việc với Tổng Biên tập Tạp chí Quê Hương (Cơ quan ngôn luận của UBNN về người Việt Nam ở nước ngoài - Bộ Ngoại giao), hai bên đã thống nhất nội dung hợp tác giữa Hội Kiều học Việt Nam và Tạp chí Quê Hương (TCQH) trong thời gian sắp tới như sau:
·        Về quan điểm.
Hai bên nhất trí thông qua Tạp chí Quê Hương (viết và trang tin điện tử) để chuyển tải một cách sinh động nhất hình ảnh Đại thi hào Nguyễn Du - Danh nhân văn hóa thế giới và kiệt tác Truyện Kiều đến với Kiều bào Việt Nam ở nước ngoài và công chúng thế giới quan tâm đến văn hóa Việt.
·        Về nội dung hợp tác.
- Trên Tạp chí Quê Hương (viết và trang tin điện tử) mở tiểu mục “Truyện Kiều” để dành đăng những bài về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
- Trên Tạp chí Quê Hương (viết) mỗi số đăng trong tiểu mục Truyện Kiều một bài (TCQH mỗi tháng ra một kỳ); trên Trang tin điện tử TCQH đăng đều trong tiểu mục Truyện Kiều mỗi ngày một bài.
- Thể loại bài viết: phóng sự, giới thiệu, thơ, bình, ảnh, … về Truyện Kiều và Nguyễn Du. Rất hạn chế những bài viết có thể loại về nghiên cứu.
- Dung lượng bài viết: không quá 2000 từ cho mỗi bài, cỡ chữ 14.
·        Thể lệ và thời gian gửi bài.
-         Bài gửi về Văn phòng Hội Kiều học Việt Nam, Email: kieuhocvietnam@gmail.com, yêu cầu ghi đầy đủ thông tin tác giả (Họ và tên, địa chỉ, điện thoại, email,…).
- Bài được duyệt đăng tải theo thứ tự thời gian gửi đến Hội.
- Chỉ nhận bài gửi qua mạng (bản mềm), không nhận bài gửi bằng giấy (bản cứng).
- Thời gian nhận bài bắt đầu sau khi thông báo này đến với tác giả.
           Trước mắt, tập trung cho bài viết Báo tết “Bính Hợi - 2019”.
·        Nội dung khác.
- Hội sẽ giao cho Ban biên tập để lựa chọn chất lượng bài viết trước khi gửi sang TCQH.
- Tiền nhuận bút căn cứ vào quy định chung của TCQH.
- Thông báo này sẽ được thông báo đến mọi thành viên như vừa nêu ở trên, được đăng tải trên trang tin điện tử của Hội, các chi hội.

Nơi nhận:
- Như kính gửi;
- Lưu VP.

             

TM. HỘI KIỀU HỌC VIỆT NAM
CHỦ TỊCH

(Đã ký)

GS. Phong Lê


BÓI KIỀU ĐÂU CHỈ NGÀY XƯA


        
Bói Kiều. Ảnh INTERNET
    Bói Kiều là một hiện tượng sinh hoạt "văn hoá - tâm linh" vô cùng kỳ lạ ở nước ta, và tin chắc rằng trên thế giới khó tìm được một tác phẩm văn học nào có được hiện tượng đó, khi người ta dùng từng câu, từng dòng để đoán về tương lai, vận mệnh của con người. Người phản đối thì coi đó là chuyện mê tín, người ủng hộ thì coi là chuyện tâm linh, mà đã là tâm linh thì không thể giải thích được bằng kiến thức khoa học thông thường. Mê tín, hay tâm linh? Điều đó tôi không có ý định phân giải trong bài viết ngắn ngủi này, mà chỉ muốn chuyển tới bạn đọc một số mẩu chuyện bói Kiều đã thu gom được.
   Những người thích bói Kiều thường nhắc tới sự kỳ diệu của tác phẩm này, có những điều không thể giải thích nổi. Ví như câu thứ 1954 trong "Truyện Kiều" là " Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai", ứng với năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ giữa ta và Pháp ký kết, nước ta tạm thời phải chia đôi! Mặc dù câu thơ trên ở trong Truyện Kiều, là lời của Thúc Sinh nói rằng mình đành phải đoạn tuyệt Thuý Kiều trong nỗi đau xót, nhưng nếu viết về nước ta đành phải chịu cảnh chia đôi vào năm 1954, thì khó có một câu thơ nào hay hơn "Cắn răng bẻ một chữ đồng làm hai".
  Từ yêu đến tin rồi tín ngưỡng Truyện Kiều như tín ngưỡng một loại tôn giáo, nhiều người tìm thấy ở tác phẩm này niềm an ủi, sẻ chia, và xa hơn, là dự báo trước những chuyện trong tương lai. Không ai nói được đích xác hiện tượng bói Kiều có từ khi nào, nhưng biết là có từ rất lâu, có lẽ ngay sau khi "Truyện Kiều" chiếm được niềm tin yêu của đông đảo bạn đọc. Trước Cách mạng tháng Tám khá lâu, chuyện bói Kiều đã phổ biến trong dân gian, và nhà văn Ngô Tất Tố đã đưa vào trong tiểu thuyết "Lều chõng". Khi Vân Hạc đi thi, vợ là cô Ngọc muốn biết trước kết quả nên đã dùng "Truyện Kiều" để bói và được bốn câu:
Bó thân về với triều đình
Hàng thân lơ láo, phận mình ra đâu
Áo xiêm ràng buộc lấy nhau
Vào luồn, ra cúi công hầu mà chi?
  "Cứ trong ý tứ mà suy", cô Ngọc biết chồng sẽ hỏng thi, nếu như đậu thì sẽ làm quan, là người của triều đình, trái với ý của bốn câu thơ trên. Vân Hạc học giỏi, khi thi hỏng, rất buồn, nhưng vợ không buồn và lựa lời an ủi chồng rằng chẳng qua vì cái số, đã được báo trước trong "Truyện Kiều".
  Nhà thơ Tế Hanh đã mê Kiều từ thời còn học sinh. Ông bảo rằng, muốn hiểu được cái hay của Truyện Kiều thì khi đọc cần thắp hương, để khói hương đưa người về cõi tâm linh thanh tịnh. Đã nhiều lần ông bói Kiều và cảm thấy rất nghiệm. Ông kể rằng, năm 1942, ông thi tú tài phần thứ nhất, lần đầu thi vào tháng 5, lần hai vào tháng 8. Lần đầu, sau khi đậu phần thi viết, bước vào thi vấn đáp ông bắt thăm được câu hỏi về Napoléon, ông trả lời lúng túng bị bà giáo người Pháp tên là Alada cho điểm thấp nên bị trượt. Trước khi thi lần hai, Tế Hanh bói Kiều, đúng hai câu:
Khi nên cảnh cũng chiều người
Nhẹ nhàng nợ trước đền bồi duyên sau.
Ông rất mừng, nhưng vẫn chăm chỉ ôn tập vì nhớ tới lời nhắc nhở của Nguyễn Du là "Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều".
 Lần thi ấy, sau khi đậu thi viết, vào phần vấn đáp, ông lại bắt được câu hỏi về Napoléon như lần thứ nhất. Do lần trước bị hỏng, về nhà, ông đọc lại thật kỹ lịch sử về Napoléon, nên lần này trả lời không những đầy đủ mà còn hết sức khúc chiết, được thầy giáo người Pháp Bourotts cho điểm rất cao. Thế là lần ấy ông đỗ, hoàn toàn ứng với câu "Nhẹ nhàng nợ trước, đền bồi duyên sau"!
   Nhiều khi bói Kiều được những câu dễ hiểu, nhưng có khi được những câu mới đọc qua chẳng thấy gì liên quan tới điều mình muốn biết, cần phải luận mới hiểu được nội dung. Cũng theo nhà thơ Tế Hanh, ông Phạm Liệu, thân sinh nhà thơ Phạm Hầu, quê ở xã Trường Giang, huyện Diên Phước, Quảng Nam, từng làm Thượng thư dưới triều Nguyễn. Hồi con đi học, ông ra Huế dự kỳ thi hương. Trước lúc lên đường đi thi, ông bói Kiều, đúng hai câu:
Dưới cờ gươm tuốt nắp ra
Chính danh thủ phạm tên là Hoạn Thư.
Kỳ thi ấy ông đỗ thủ khoa, ứng với chính danh thủ phạm. Kỳ diệu hơn nữa, về sau ông làm Thượng thư bộ Binh, ứng với Dưới cờ gươm tuốt nắp ra!
 Trong hồi ký của Trần Trọng Kim có kể lại một chuyện liên quan tới bói Kiều. Năm 1944, vì sợ bọn Pháp bắt mất một số người tin cậy của mình, Nhật đã bố trí cho Trần Trọng Kim, Dương Bá Trạc, Trần Văn Ân, Đặng Văn Ký... "sơ tan" sang Singapore một thời gian. Khi các ông ở Singapore, do ăn uống quá kham khổ, thuốc thang không có, bệnh tật liên miên, nên ai cũng muốn trở về nước. Một hôm, Dương Bá Trạc nói vời mọi người rằng sắp được về rồi, mọi người hỏi nguốn tin ở đâu, thì ông Trạc chỉ vào hai câu Kiều vừa bói được:
Việc nhà đã tạm thong dong
Tinh kỳ giục giã đã mong độ về.
  Ông Kim cùng những người khác không tin, không ngờ ít hôm sau mọi người được về nước thật, chỉ trừ ông Dương Bá Trạc đã "về" theo nghĩa khác, vì ông mất ở Singapore!
     Bà Minh Mị, đã ngoài 90 tuổi, với biệt danh Hà Thành độc giả, một người thuộc lòng Truyện Kiều từ nhỏ và cũng đã từng bói Kiều khi còn học sinh. Bà kể rằng, lần ấy sau khi thi xong, vì nóng lòng muốn biết kết quả nên đã bói Kiều. Kết quả được hai câu:
Có cổ thụ, có sơn hồ
Cho nàng ra đó giữ chùa, chép kinh.
Bà không hiểu ý nghĩa ra sao, được thân sinh bà kết luận rằng bà sẽ đậu. Bà đọc hai câu thơ rồi hỏi lại:" Thế sau này con đi tu hở bố?". Ông cụ cười và giải thích rằng:" Không phải thế! Trước khi bói, con đã khấn xin để biết được kết quả kỳ thi này của con, nên không thể hiểu như vậy được, Trong "Truyện Kiều", hai câu này nói rằng Hoạn Thư chấp nhận nguyện vọng của Thuý Kiều "Rắp đem mệnh bạc xin nhờ cửa không", thì ở đây người ta cũng chấp nhận nguyện vọng của con, tức là con đỗ thi". Và đúng như vậy, kỳ thi đó bà trúng tuyển.
   Sinh thời, nhà thơ Gia Ninh kể chuyện đi công tác cùng nhà thơ Xuân Diệu ở tỉnh Nghệ An trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Vì phương tiện giao thông không có, hai ông phải đi bộ liên tục nên xế chiều muốn dừng lại nghỉ ở một làng cạnh quốc lô. Bà con người làng khuyên các ông nên đi thêm mấy cây số nữa lại nghỉ, vì ở đây máy bay Pháp thường bắn phá. Hai ông đang chần chừ chưa biết quyết định ra sao, thì Xuân Diệu mở túi dết, lấy "Truyện Kiều" ra bói, và được hai câu:
Rạng ra gửi đến xuân Đường
Thúc ông cũng vội giục chàng ninh gia.
 Hai nhà thơ quyết định đi ngay vì ba chữ thúc, vội giục, đó là chưa kể chàng ninh gia là chàng Gia Ninh nói ngược. Đi được chừng ba bốn cây số ngoảnh lại thì thật hú vía: máy bay Pháp đang bắn phá ngôi làng hai nhà thơ định nghỉ lại. Xuân Diệu nói với Gia Ninh:" Cô Kiều cứu chúng mình đấy!"
     Hồi tôi còn nhỏ, nghe kể chuyện ở quê có một học sinh học thật xuất sắc, trên đường đi thi bị chết đuối, mất tích, người ta nhắn tin về cho ông bố, nhưng để ông đỡ choáng, họ bảo rằng anh ta bị cảm hiện đang nằm ở trạm xá nọ. Khi nghe người đưa tin nói vậy, ông bố nói:" Đừng giấu tôi nữa, thằng con tôi chết đuối rồi! Thôi, để tôi đi tìm xác con tôi".  Sau khi thi thể kẻ xấu số đã được tìm thấy và chôn cất tử tế, người ta hỏi sao ông biết trước chuyện này, ông bảo rằng, khi con đi thi, ông bói Kiều và được hai câu:
Đành thân cát lấp, sóng vùi
Tiếc công cha mẹ, thiệt đời thông minh".
Và ông đã thốt lên: "Thôi còn chi nữa mà mong/ Đời người thôi thế là xong một đời", nên sẵn sàng đón tin dữ.
   Hồi phong trào sinh đẻ có kế hoạch mới được vận động, một ông chồng vốn nhà con một, vợ sinh hai lần được hai "thị mẹt", đứa thứ hai đã đi học, thế mà không chửa đẻ gì thêm để cho ông hy vọng người "nối dõi tông đường", trong khi ông vẫn trẻ khoẻ, vợ ông vẫn phây phây ra chứ đau ốm gì đâu. Vốn dòng nhà Nho, ông mê "Truyện Kiều" và thỉnh thoảng có bói Kiều, nhân đi vợ đi họp đại hội phụ nữ toàn xã, ông ở nhà tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo mới, thắp nén hương thơm và đem "Truyện Kiều" ra bói.
Ông ngồi xếp bằng, đối diện với bát hương, hai tay chắp lại, kẹp "Truyện Kiều"  ở giữa và nâng lên khấn: " Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều...tên con là...năm nay ...tuổi. Chúng con mới được hai mụn con gái, muốn có đứa con trai nối dõi tông đường, nhưng hơn mười năm nay, không hiểu sao vợ con không chửa đẻ gì cả. Cho con xin một quẻ để biết được nguyên nhân. Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều, hãy cho con bốn câu, từ câu thứ... trang bên phải." Xong, ông mở ra đọc:
Bây giờ tình mới tỏ tình
Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai
Chước đâu có chước lạ đời
Người đâu mà lại có người tinh ma.
  Khi luận được nội dung lời bói, mặt ông đỏ lên như gấc chín vì giận, nhưng vốn con nhà nho, đợi đến tối hôm đó, khi cơm nước xong xuôi, ông mới hỏi vợ:
  - Bà trốn tôi đi đặt vòng từ khi nào?
  Bà vợ hết sức ngạc nhiên vì chuyện đó bà giấu ông và đã xẩy ra ngót chục năm trời, sao ông nay ông mới động tới.
 - Ba tưởng giấu được tôi mãi chăng? Ba giấu nhưng "Truyện Kiều" mách tôi. Bà đọc đi ... Rồi ông gí bốn câu thơ trên vào sát măt bà, sát đến nỗi bà phải ngửa người lùi ra mới đọc được. Bà chả hiểu gì ý nghĩa, ông giải thích:
  - "Thôi thôi đã mắc vào vành chẳng sai", nghĩa là bà đã đặt vòng, có nơi gọi vòng là vành, phải không? Đặt vòng là cái "chước lạ đời", bà giấu tôi để làm việc đó "là người tinh ma", bà hiểu chưa?
  Bà vợ không nói lại một câu nào, chỉ thầm nghĩ, không ngờ trong quyển "Truyện Kiều" hàng ngày ông vẫn đọc lại chứa đựng những khả năng kỳ diệu như thế?
          Không hiểu những chuyện bói Kiều tôi vừa thu gom được, độ tin cậy đến đâu?

VƯƠNG TRỌNG

LONG TRỌNG TƯỞNG NIỆM LẦN THỨ 198 NĂM NGÀY MẤT DANH NHÂN VĂN HÓA THẾ GIỚI - ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU

    LTS: Sáng 19/9/2018 (10/8 Mậu Tuất), Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp với Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh tổ chức Lễ tưởng niệm lần thứ 198 năm ngày mất danh nhân văn hóa Thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du.
      Tham dự buổi lễ có đồng chí Hà Văn Thạch, UVBTVTU, Trưởng Ban Tổ chức Tỉnh ủy, lãnh đạo Hội Kiều học Việt Nam, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh, Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du; Lãnh đạo chính quyền địa phương, dòng họ và gần 50 hội viên Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh. Đặc biệt dự lễ giỗ lần này còn có 20 đại biểu của Hội người cao tuổi làng Canh Hoạch, Hà Nội.
      Buổi lễ đã diễn ra long trọng với các nội dung: Lễ dâng hương tại khu mộ; Lễ dâng hương tại Nhà thờ Đại thi hào Nguyễn Du; Lễ tiếp nhận câu đối do Hội Người cao tuổi làng Canh Hoạch (Hà Tây cũ) cung tiến và Chương trình biểu diễn Trò Kiều của các nghệ nhân Câu lạc bộ Trò Kiều xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân.
                                Sau đây là một số hình ảnh tại buổi lễ:
Lễ dâng hương tại Khu mộ Đại thi hào. Ảnh Đức Cường


Dâng rượu lên mộ Đại thi hào. Ảnh Đức Cường


Toàn cảnh buôỉ L. Ảnh Đức Cường

Tiếp nhận câu đối Hội người cao tuổi làng Canh Hoạch cung tiến. Ảnh Đức Cường
"Canh Hoạch đất danh hương Trạng nguyên cậu,Trạng nguyên cháu, danh truyền khắp nước.
Tiên Điền miền phúc địa Tể tướng cha, Tể tướng con, phúc ấm muôn nhà".
Biểu diễn Trò Kiều, tiết mục: “Trích đoạn Từ Hải chết đứng” trong tấn Trò Kiều do Câu lạc bộ Trò Kiều, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân biểu diễn. Ảnh: TS
Chụp ảnh lưu niệm. Ảnh Đức Cường
Bên tượng Đại thi hào Nguyễn Du. Ảnh TL

“TRUYỆN KIỀU CÒN, TIẾNG TA CÒN. TIẾNG TA CÒN, NƯỚC TA CÒN”

LTS: Chỉ còn 10 ngày nữa là lễ giỗ lần thứ 198 của Đại thi hào Nguyễn Du, danh nhân văn hóa thế giới. Xin gửi tới bạn đọc toàn văn bài Diễn văn của học giả Phạm Quỳnh tại lễ giỗ lần thứ 104 Đại thi hào Nguyễn Du vào ngày 8 tháng 12 năm 1924, tức ngày mồng 10 tháng 8 năm Giáp Tý do Hội Khai trí tiến đức tổ chức tại Hà Nội, để thấy được sự vĩ đại Nguyễn Du cũng như tầm mức văn hóa của cụ Phạm Quỳnh.



Thưa các Ngài,
Hôm nay là ngày giỗ cụ Tiên-điền Nguyễn Tiên-sinh, là bậc đại-thi-nhân của nước Nam ta, đã làm ra bộ văn-chương tuyệt-tác là truyện Kim-Vân-Kiều.
Ban Văn-học Hội Khai-trí chúng tôi muốn nhân ngày giỗ này đặt một cuộc kỷ-niệm để nhắc lại cho quốc-dân nhớ đến công-nghiệp[1] một người đã gây-dựng cho quốc-âm ta thành văn-chương, để lại cho chúng ta một cái « hương hỏa » rất quí-báu, đời đời làm vẻ-vang cho cả giống-nòi.
Chúng tôi thiết-nghĩ một bậc có công với văn-hóa nước nhà như thế, không phải là ông tổ riêng của một nhà một họ nữa, mà là ông tổ chung của cả nước; ngày giỗ ngài không phải là ngày kỷ-niệm riêng của một nhà một họ nữa, chính là ngày kỷ-niệm chung của cả nước.
Hiện nay suốt quốc-dân ta, trên từ hàng thượng-lưu học-thức, dưới đến kẻ lam-lũ làm ăn, bất-cứ già trẻ, lớn bé, đàn ông, đàn bà, ai ai cũng biết truyện Kiều, ai ai cũng thuộc truyện Kiều, ai ai cũng kể truyện Kiều, ai ai cũng ngâm truyện Kiều, như vậy thời ai ai cũng đều hưởng cái công-nghiệp của Cụ Tiên-điền ta, ai ai cũng phải nhớ ngày giỗ Cụ và nghĩ đến cái ơn của Cụ tác-thành cho tiếng nước nhà.
Muốn cảm cái ơn ấy cho đích-đáng, hẵng thử giả-thiết Cụ Tiên-điền không xuất-thế[2], Cụ Tiên-điền có xuất-thế mà quyển truyện Kiều không xuất-thế, quyển truyện Kiều có xuất-thế mà vì cớ gì không lưu-truyền, thời tình-cảnh tiếng An-Nam đến thế nào, tình-cảnh dân-tộc ta đến thế nào?
Văn-chương người ta thiên kinh vạn quyển, dẫu có thiếu mất một quyển cũng chẳng hại gì. Văn-chương mình chỉ độc có một quyển, vừa là kinh, vừa là truyện, vừa là Thánh-thư[3] Phúc-âm[4] của cả một dân-tộc, ví lại khuyết nốt thì dân-tộc ấy đến thế nào?
Than ôi! Mỗi lần nghĩ tới mà không khỏi rùng mình, chột dạ, sửng-sốt, rụng-rời, tưởng như hòn ngọc ở trên tay bỗng rơi xuống vỡ tan-tành vậy. Rồi mới tỉnh ra, sực nhớ đến mấy câu Kiều, vỗ bàn đập ghế, gõ dịp[5] rung đùi, lên giọng cao-ngâm:
Lơ-thơ tơ liễu buông mành,
Con oanh học nói trên cành mỉa-mai,

hay là:
Phong-trần mài một lưỡi gươm,
Những phường giá áo túi cơm xá gì,

bỗng thấy trong lòng vui-vẻ, trong dạ vững-vàng, muốn nhẩy muốn múa, muốn reo muốn hò, muốn ngạo-nghễ với non sông mà tự-phụ với người đời rằng: Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, có gì mà lo, có gì mà sợ, có điều chi nữa mà ngờ!...
Có nghĩ cho xa-xôi, cho thấm-thía, mới hiểu rằng truyện Kiều đối với vận-mệnh nước ta có một cái quí-giá vô-ngần.
Một nước không thể không có quốc-hoa, truyện Kiều là quốc-hoa của ta; một nước không thể không có quốc-túy, truyện Kiều là quốc-túy của ta; một nước không thể không có quốc-hồn, truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều là cái « văn-tự »[6] của giống Việt-Nam ta đã « trước-bạ »[7] với non sông đất nước này.
Trong mấy nghìn năm ta chôn rau[8] cắt rốn, gửi thịt gửi xương ở cõi đất này, mà ta vẫn hình như một giống ăn trọ ở nhờ, đối với đất nước non sông vẫn chưa từng có một cái văn-tự văn-khế phân-minh, chứng-nhận cho ta có cái quyền sở-hữu chính-đáng. Mãi đến thế-kỷ mới rồi mới có một đấng quốc-sĩ[9], vì nòi-giống, vì đồng-bào, vì tổ tiên, vì hậu-thế, rỏ máu làm mực, « tá-tả»[10] một thiên văn-khế tuyệt-bút, khiến cho giống An-Nam được công-nhiên[11], nghiễm-nhiên[12], rõ-ràng, đích-đáng làm chủ-nhân-ông một cõi sơn-hà gấm vóc.

Đấng quốc-sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên-điền ta vậy. Thiên văn-khế ấy là gì? Là quyển truyện Kiều ta vậy.
Gẫm trong người ấy báu này,
Chẳng duyên chưa dễ vào tay ai cầm!

Báu ấy mà lọt đến tay ta, thật cũng là một cái phúc-duyên cho ta, nhưng báu ấy ở trong tay Cụ lại chính là một cái túc duyên[13] của Cụ. Thiên văn-tự tuyệt-bút kia là gồm bao nhiêu giọt máu, bao nhiêu giọt lệ kết-tinh lại mà thành ra, những khi đêm khuya thanh-vắng vẫn thường tỉ-tê thánh-thót trong lòng ta, như
Giọt sương gieo nặng cành xuân la-đà vậy.
Cái áng văn-chương tuyệt-tác cho người đời đó, an-tri lại không phải là một thiên lịch-sử thống-thiết của tác-giả?
Truyện Kiều quan-hệ với thân-thế Cụ Tiên-điền thế nào, lát nữa ông Trần Trọng-Kim sẽ diễn-thuyết tường để các ngài nghe.
Nay tôi chỉ muốn biểu-dương cái giá-trị của truyện Kiều đối với văn-hóa nước ta, đối với văn-học thế-giới, để trong buổi kỷ-niệm này đồng-nhân cảm biết cái công-nghiệp của bậc thi-bá nước ta lớn-lao to-tát là dường nào.
Đối với văn-hóa nước nhà, cái địa-vị truyện Kiều đã cao-quí như thế; đối với văn-học thế-giới cái địa-vị truyện Kiều thế nào?
Không thể so-sánh với văn-chương khắp các nước, ta hẵng so-sánh với văn-chương hai nước có liền-tiếp quan-hệ với ta, là văn-chương Tàu và văn-chương Pháp. Văn-chương Tàu thật là mông-mênh bát-ngát, như bể như rừng. Nhưng trong rừng văn bể sách đó, tưởng cũng ít quyển sánh được với truyện Kiều, mà xét cho kỹ có lẽ không có sách nào giống như truyện Kiều. Gốc truyện tuy do một bộ tiểu-thuyết Tàu mà ra, nhưng vào tay Cụ Tiên-điền ta biến-hóa hẳn, siêu-việt ra ngoài cả lề-lối văn-chương Tàu, đột-ngột như một ngọn cô-phong ở giữa đám quần-sơn vạn-hác vậy. Có người sánh truyện Kiều với Li-tao, nhưng Li-tao là một bài than, từ đầu đến cuối toàn một giọng bi-đát thảm-thương, so với Cung-oán của ta có lẽ đúng hơn. Có người lại sánh với Tây-xương, nhưng Tây-xương là một bản hát, từ-điệu có véo-von, thanh-âm có réo-rắt, nhưng chẳng qua là một mớ ca-từ cho bọn con hát, không phải là một nền văn-chương chân-chính. Cứ thực thì truyện Kiều dẫu là đầm-thấm cái tinh-thần của văn-hóa Tàu, dẫu là dung-hòa những tài-liệu của văn-chương Tàu, mà có một cái đặc-sắc văn-chương Tàu không có. Cái đặc sắc ấy là sự « kết-cấu ». Nhà văn, nhà thơ Tàu, ngoài những bài thơ bài văn nho-nhỏ ngăn-ngắn, phàm làm sách chỉ biết cách biên-tập, không sành cách kết-cấu. Biên-tập là cóp-nhặt mà đặt liền lại; kết-cấu là thu-xếp mà gây-dựng lên, thế nào cho thành một cái toàn-bức các bộ-phận điều-hòa thích-hợp với nhau, không thêm bớt được chút nào. Truyện Kiều là một cái toàn-bức như thế, mà là một bức tranh thế-thái nhân-tình vẽ sự đời như cái gương tầy liếp vậy.
Xét về cách kết-cấu thì văn-chương nước Pháp lại là sở-trường lắm. Cho nên truyện Kiều có thể sánh với những áng thi-văn kiệt-tác của quí-quốc, như một bài bi-kịch của Racine hay một bài văn tế của Bossuet vậy. Đó là nói về cái thể-tài văn-chương. Còn về đường tinh-thần thời trong văn-học Pháp có hai cái tinh-thần khác nhau, là tinh-thần cổ-điển và tinh-thần lãng-mạn. Tinh-thần cổ-điển là trọng sự lề-lối, sự phép-tắc; tinh-thần lãng-mạn là trong sự khoáng-đãng, sự li-kỳ. Truyện Kiều gồm được cả hai cái tinh-thần ấy, vì vừa có cái đạo-vị thâm-trầm của Phật-học, vừa có cái nghĩa-lý sáng-sủa của Nho-học, vừa có cái phong-thú tiêu-dao của Trang Lão, lấy lẽ phải ông Khổng mà chế lại sự thần-bí của nhà chùa, sự khoáng-dật của hai họ. Nhưng mà ngay trong văn-chương nước Pháp tưởng cũng không có sách nào giống hẳn như truyện Kiều, vì truyện Kiều có một cái đặc-sắc mà những nền kiệt-tác trong văn-chương Pháp không có. Đặc-sắc ấy là sự « phổ-thông ». Phàm đại-văn-chương, không những ở nước Pháp, ở nước nào cũng vậy, chỉ có những người thượng-lưu học-thức mới thưởng-giám được, kẻ bình-dân không biết tới. Người Pháp không phải là ai ai cũng biết đọc kịch Racine hay là đọc văn Bossuet. Người Nam thời ai ai cũng biết ngâm Kiều, kể Kiều, « lẩy » Kiều để ứng-dụng trong sự ngôn-ngữ thường, kẻ thông-minh hiểu cách thâm-trầm, kẻ tầm-thường hiểu cách thô-thiển, nhưng ngâm-nga lên thảy đều lấy làm vui tai, sướng miệng, khoái trí, tỉnh hồn.
Thử hỏi cổ kim Đông Tây đã có một áng văn-chương nào cảm người được sâu và được rộng như thế chưa. Tưởng dễ chỉ có một truyện Kiều ta là có thể tự-cao với thế-giới là văn-chương chung của cả một dân-tộc 18,20 triệu người, già, trẻ, lớn, bé, giỏi, dốt, sang, hèn, đều thuộc lòng và đều biết hay cả.
Như vậy thì truyện Kiều, không những đối với văn-hóa nước nhà, mà đối với văn-học thế-giới cũng chiếm được một địa-vị cao-quí.
Văn-chương ta chỉ có một quyển sách mà sách ấy đủ làm cho ta vẻ-vang với thiên-hạ, tưởng cũng là một cái kỳ-công có một trong cõi văn thế-giới vậy.
Cái kỳ-công ấy lại dũ-kỳ nữa là ngẫu-nhiên mà dựng ra, đột-nhiên mà khởi lên, trước không có người khai đường mở lối, sau không có kẻ nối gót theo chân, đột-ngột giữa trời Nam như cái đồng-trụ để tiêu-biểu tinh-hoa của cả một dân-tộc. Phàm văn-chương các nước, cho được gây nên một nền thi-văn kiệt-tác, phải bao nhiêu nhà thơ, bao nhiêu nhà văn, trong bao nhiêu năm lao-công lục-lực, vun-trồng bón-xới mới thành được. Nay bậc thi-bá nước ta, đem cái thiên-tài ít có trong trời đất, đúc cái khí thiêng bàng-bạc trong non sông, một mình làm nên cái thiên-cổ-kỳ-công đó, dẫu khách thế-giới cũng phải bình-tình mà cảm-phục, huống người nước Nam được trực-tiếp hưởng-thụ cái ơn-huệ ấy lại chẳng nên ghi-tạc trong lòng mà thành-tâm thờ-kính hay sao?
Cuộc kỷ-niệm hôm nay là chủ-ý tỏ lòng quốc-dân sùng-bái cảnh-mộ Cụ Tiên-điền ta; lại có các quí-hội-viên Tây và các quí-quan đến dự cuộc là để chứng-kiến cho tấm lòng thành-thực đó. Nhưng còn có một cái ý-nghĩa nữa, là nhân ngày giỗ này, đốt lò hương, so phím đàn, chiêu hồn quốc-sĩ.
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
áng tinh-trung thấp-thoáng dưới bóng đèn, chập-chừng trên ngọn khói, xin chứng-nhận cho lời thề của đồng-nhân đây. Thề rằng: « Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn, còn non còn nước còn dài, chúng tôi là kẻ hậu-sinh xin rầu lòng giốc chí cố gia-công trau-chuốt lấy tiếng quốc-âm nhà, cho quốc-hoa ngày một rực-rỡ, quốc-hồn ngày một tỉnh-tao, quốc-bộ ngày một tấn-tới, quốc-vận ngày một vẻ-vang, ngõ-hầu khỏi phụ cái chi hoài-bão của tiên-sinh, ngậm cười chín suối cũng còn thơm lây! »
Phạm Quỳnh
Chú thích:
1) công nghiệp: Công lao và sự nghiệp đối với xã hội.
2) xuất thế: ra đời, nói một cách trân trọng.
3) Thánh thư: sách Thánh.
4) Phúc âm: Tin lành.
5) dịp: nhịp.
6) văn tự: giấy tờ do hai bên thỏa thuận ký kết mua bán.
7) trước bạ: đăng ký văn tự với một cơ quan nhà nước để có tính pháp lý.
8) rau: nhau.
9) quốc sĩ: người tài nổi tiếng trong cả nước.
10) tá tả: viết dùm người khác.
11) công nghiên: một cách công khai.
12) nghiễm nhiên: (thực hiện) một cách tự nhiên và đàng hoàng, điều mà trước đó không ai ngờ.
13) túc duyên: duyên sẵn từ kiếp trước.

MỘT TIN VUI

LTS: Với những hoạt động tích cực của Hội Kiều học Việt Nam và Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh trong các cuộc làm việc gần đây với lãnh đạo tỉnh, ngày 22/8/2018, UBND tỉnh Hà Tĩnh đã ban hành một văn bản rất quan trọng, xin báo để các hội viên mừng. Đây là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động của Hội từ nay đến 2020.


VẦNG TRĂNG VỚI THÚY KIỀU


    Theo quy luật tự nhiên, số đêm có trăng cũng chỉ xấp xỉ với đêm tối trời, thế nhưng trong Truyện Kiều, phần lớn các đêm đều có trăng. Nếu như tôi thống kê không nhầm, thì chỉ có ba đêm không trăng, đấy là đêm Thúy Kiều trao duyên cho Thúy Vân, đêm cùng Mã Giám Sinh ở trú phường và đêm Hoạn Thư đánh ghen bắt hầu đàn. Trường hợp thứ nhất và thứ ba, có thể do  chuyện xẩy ra trong đêm khuya, lại ở trong nhà, nên vầng trăng không xuất hiện. Trường hợp thứ hai, là đêm Thúy Kiều bị lão Mã hại đời trinh tiết, tác giả muốn mô tả một đêm kinh hoàng, tăm tối “ Trời hôm mây kéo tối sầm/ Dàu dàu ngọn cỏ, đầm đầm cành sương” dẫn đến “ Tiếc thay một đóa trà mi/ Con ong đã tỏ đường đi lối về”, và “ Đời người thôi thế là xong một đời” nên không cho vầng trăng nào xuất hiện?
  Trong Truyện Kiều, với Thúy Kiều đêm đầu tiên là đêm sau ngày mấy chị em đi chơi thanh minh. Đêm đó Thúy Kiều ám ảnh bởi Đạm Tiên, manh nha  mối tình với chàng Kim và vầng trăng đã mấy lần xuất hiện với các tên gọi khác nhau, khi thì “Gương nga chênh chếch dòm song”, “Một mình tựa ngắm bóng nga”; khi thì “Chênh chênh bóng nguyệt xế mành”…với chức năng chủ yếu là dẫn dắt Thúy Kiều vào cõi mộng.
  Thứ hai là khi cả nhà đi dự “sinh nhật ngoại gia”, Thúy Kiều tận dụng cơ hội lẻn sang thăm chàng Kim hai lần. Đi lần thứ nhất không thấy có trăng, vì ban ngày, nhưng lần thứ hai thì “Nhặt thưa gương giọi cầu cành” khi nàng “Xăm xăm băng lối vườn khuya một mình”. Và vầng sáng nhất, quan trọng nhất trong đêm ấy là vầng trăng chứng kiến thề bồi: “ Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai mặt một lời song song”.
   Một tháng ròng theo Mã Giám Sinh đi từ Bắc Kinh về Lâm Tri, tất nhiên thế nào cũng có đêm có trăng, và tác giả đã dành cho một câu tả cảnh, tả tình hay vào loại bậc nhất của Truyện Kiều:
Dặm khuya ngất tạnh, mù khơi
Thấy trăng mà thẹn những lời non sông.
Khuya, ngồi trên xe ngựa đi đường nhìn lên trời, mây mù như tan ra cho vầng trăng hiển hiện.Ôi, vầng trăng thề thốt vẫn còn kia, mà mình đã phụ lời với người tình, mắt gặp lại trăng mà lòng thẹn với lòng!
 Ở Lâm Tri nàng buồn, chiều hôm ra ngồi trước lầu Ngưng Bích, nhìn ngang màn trời chợt nhận ra “ Vẻ non xa, tấm trăng gần, ở chung”. Trong tự nhiên thì trăng xa hơn núi, nhưng trong khoảnh khắc ấy, núi non như đẩy xa ra, vầng trăng như kéo gần lại, để cả hai thứ ấy  cùng nằm trong một bình diện.
    Rồi nàng mắc lừa Sở Khanh, trốn đi trong “Đêm thu khắc lậu, canh tàn/ Gió cây trút lá, trăng ngàn ngậm gương”, hình như cảnh ấy muốn báo một chuyện hãi hùng sắp diễn ra, là Sở Khanh trốn đi, Tú Bà bắt nàng về, đánh đập, buộc nàng phải chịu tiếp khách. Nhưng, “nghề chơi cũng lắm công phu”, Thúy Kiều phải học nghề như bao cô gái khác, điều oái oăm là cái mụ Tú Bà “nhờn nhợt màu da”ấy lại chọn đêm trăng sáng để dạy nghề lầu xanh! Nàng đã thực sự trở thành gái lầu xanh, dù có “vui gượng kẻo là” thì cũng phải tiếp khách, cũng phải biết “cung cầm trong nguyệt, nước cờ dưới hoa” để chiều khách làng chơi, kể cả khi với Thúc Sinh “nguyệt hoa, hoa nguyệt não nùng”, chuốc rượu, nối thơ “ khi gió gác, khi trăng sân”…Rồi cũng vào một đêm trăng “ngoài hiên thỏ đã non đoài ngậm gương”, Thúc Sinh đã đánh lừa Tú Bà để hoàn lương Thúy Kiều. Sắc, tài đã cho nàng Kiều thắng kiện, dẹp cơn thịnh nộ của Thúc Ông, về chung sống “huệ lan sực nức một nhà” với Thúc Sinh. Thúy Kiều khuyên chồng về Vô Tích thăm vợ cả là Hoạn Thư, Thúc Sinh lên đường, nàng Kiều đưa tiễn, “ Vầng trăng ai xẻ làm đôi” một nửa ở lại với gối chiếc Thúy Kiều, một nửa theo dặm trường chàng Thúc!
   Một năm xa, một năm chờ đợi, vào một đêm thu, nàng nhìn lên bầu trời thấy vầng trăng khuyết và ba ngôi sao, tưởng ai tạc lên giữa không gian chữ TÂM, là chữ cuối của Thúc Kỳ Tâm, tên của Thúc Sinh, để nàng thêm nhớ chàng. Nhưng chính đêm trăng đó bọn Khuyển Ưng đã đến đánh thuốc mê bắt nàng đưa về Vô Tích theo mưu đồ đánh ghen của Hoạn Thư. Kể chi chuyện nàng bị Hoạn Thư hành hạ bắt hầu đàn, kể chi chuyện nàng ra ở Quan Âm Các, chỉ nhớ chuyện nàng trốn khỏi Quan Âm Các cũng vào một đêm trăng “ Cất mình qua ngọn tường hoa/ Lần đường theo ánh trăng tà về tây”.Trăng cứu Thúy Kiều ra khỏi Quan Âm Các thì “cữ cuối xuân / bóng hoa rợp đất, vẻ ngân ngang trời” lại đưa Bạc bà đến Chiêu Ẩn Am để mang tai họa cho nàng, bắt nàng trở lại lầu xanh, chỉ có khác là không phải ở Lâm Tri mà ở Châu Thai.
    Một đêm “gió mát trăng thanh” thật đẹp là đêm vị anh hùng Từ Hải xuất hiện, sau đó cứu nàng ra khỏi vũng lầy lầu xanh, nhưng rồi chính Từ mắc mưu Hồ Tôn Hiến, phải chết đứng. Bị ép gả cho thổ quan, nàng Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự vẫn khi “mảnh trăng đã gác non đoài”…Nhưng rồi chính Thúy Kiều được hai ngư phủ cứu, đưa về Thảo Am sống cùng Giác Duyên, “ Gió trăng mát mặt, muối dưa chay lòng” chờ ngày đoàn viên “ trăng tàn mà lại hơn mười rằm xưa”. Như thế, vầng trăng đã hành trình theo cuộc đời của Thúy Kiều. Và ta chắp lại thành thơ:

                         TRĂNG TRONG KIỀU

Phải chăng người đẹp trên trời
Kết thân người đẹp cõi đời từ lâu
Mà Kiều, đêm ở nơi đâu
Chị Hằng tìm đến bên nhau tự tình?

Vui buồn sau hội thanh minh
Gương nga, bóng nguyệt hiện hình sẻ chia
Thương nàng giấc mộng não nề
Cớ sao trăng lại đưa về Đạm Tiên?

Đầu cành trăng dọi nhà bên
Xăm xăm băng lối, chàng Kim sững sờ
Rõ ràng mở mắt còn ngờ
Vầng trăng chứng kiến tóc tơ thề bồi.

Chưa sum họp, đã chia phôi
"Thấy trăng mà thẹn những lời non sông"
Theo xe đi một tháng ròng
Vầng trăng thương cảm nỗi lòng Kiều nhi.

Gặp trăng mấy độ Lâm Tri
Trăng gần Ngưng Bích, xa gì lầu xanh
" Bóng nga thấp thoáng dưới mành"
Trăng ơi sao để Sở Khanh hiện về?
Lừa nàng lẩn trốn canh khuya
Gió cây trút lá thảm thê trăng ngàn
Tú Bà đã đắt mưu gian
Chọn khi nguyệt sáng dạy nàng nghề chơi!
Bẽ bàng chi bấy người ơi
Nửa rèm tuyết ngậm, trăng soi bốn bề
Câu thơ, nét vẽ não nề
Chiều người trong nguyệt tái tê cung đàn.

“Khi gió gác, khi trăng sân”
Với chàng Thúc biết bao lần hàn huyên
Dưới trăng hè vẳng tiếng quyên
Thang lan rủ trướng rõ thêm ngọc ngà
Biệt ly đau dặm đường xa
Vầng trăng xẻ nửa, quan hà chia hai.
“Tóc thề đã chấm ngang vai”
Ba sao, trăng khuyết tên ai giữa trời
Trốn Quan Âm các ra ngoài
Trăng tà soi bóng dẫn người về tây.

Khách biên đình bỗng một ngày
Trăng thanh gió mát sang đây thăm Kiều
Ngờ đâu oan nghiệt còn theo
Non đoài trăng gác đêm gieo Tiền Đường
Giác Duyên nhà cỏ đón nàng
Chay lòng dưa muối, gió trăng cõi thiền
Để rồi đón cảnh đoàn viên
Trăng tàn mà lại sáng lên không ngờ.

Trăng trời khi tỏ, khi mờ
Trăng Kiều tròn, khuyết - bao giờ cũng trong
Như nàng nước đẩy theo dòng
Mà nguồn trinh bạch giữ lòng vẹn nguyên
Trăng, người hội ngộ bao phen
Nỗi niềm trần thế thấu lên cõi trời!
 VƯƠNG TRỌNG

THƯ NGỎ

Kính thưa quý vị!      Nguyễn Du (1765-1820) là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông ...