Dịch giả Thúy Toàn vinh dự được Tổng thống Nga Dmitri Medvedev
trao tặng Huân chương Hữu nghị. Ảnh Internet
trao tặng Huân chương Hữu nghị. Ảnh Internet
HOÀNG THÚY TOÀN *
Sự “tương đồng và khác biệt” giữa hai đại thi hào Nga Alexandr Sergeyevich Puskin (1799-1837) và đại thi hào Việt Nam Nguyễn Du (1766-1820) từng sống gần như cùng một thời đại, chỉ khác ở hai đất nước cách xa nhau với hai bối cảnh lịch sử cùng ở giai đoạn phong kiến khốc liệt, nhưng trình độ truyền thống văn hóa Đông Tây khác nhau, tuy nhiên, cuối cùng lại bước vào một giai đoạn đi chung một con đường hòa nhập nhân loại.
Trong bài nghiên cứu Tác phẩm của Puskin ở Việt Nam công bố trong công trình Puskin ở phương Đông (tiếng Nga, NXB Khoa học “Nauka”, M.1979), đã được dịch và công bố trong sách tiếng Việt1, tác giả Gs.Viện sĩ N. Nikulin đã có nhận xét khái quát: “Những năm 50-70 thế kỷ XX, khi nhận thức từ quan điểm Mác – Lênin về quá trình phát triển của văn học Việt Nam và ngôn ngữ học Việt Nam được tăng cường, vai trò của Puskin trong sự hình thành văn học Nga và ngôn ngữ học Nga đã lôi cuốn sự chú ý đặc biệt của các nhà khoa học Việt Nam... Bắt tay vào nghiên cứu và biên soạn một cách có hệ thống những vấn đề lịch sử ruột thịt của mình, các nhà khoa học Việt Nam đã tiến hành so sánh, mặc dù điều này thiết nghĩ, chỉ là tương đối, giữa Pushkin và đại thi hào Việt Nam là Nguyễn Du (1766-1820)”. Tác giả N. Nikulin đã đưa ra những dẫn chứng trích từ các công trình khoa học của các tác giả Việt Nam, từ Đào Duy Anh (Khái luận về Truyện Kiều, H.1958); Nguyễn Văn Hoàn (Controverses sur la Kieu, Etudes Vietnames, số 4/1965, trg 75); Lê Đình Kỵ (Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, H.1970, trg.473); Hoàng Xuân Nhị (Lịch sử văn học Nga thế kỷ XIX, H.1959)…
Nhắc đến ý kiến của các dịch giả văn thơ Pushkin sang tiếng Việt, N. Nikulin đã đưa ra những nhận xét của họ (như nhà thơ dịch giả Hoàng Trung Thông hay dịch - giả giáo sư Cao Xuân Hạo) về sự tương đồng và khác biệt giữa Puskin và các tác giả Việt Nam, trong đó có Nguyễn Du. Nhận xét về dịch thơ trữ tình Puskin sang tiếng Việt, ông còn viết thêm “… rõ ràng không phải ngẫu nhiên mà bản dịch bài thơ Chiếc xe đời do Thúy Toàn dịch lại là một trong những bài dịch đầu tiên được in. Bài thơ ngụ ý này hóa ra là rất gần gũi với thơ cổ Việt Nam, với một nét đặc trung cho thơ ngụ ý, nghĩa thứ hai (mới quan trọng – ND) và là ngụ ý ngầm ẩn”[1].
CHIẾC XE ĐỜI
A.Pushkin
Trên xe dù có nặng
Vó ngựa vẫn băng băng.
Thời gian tóc hoa râm
Tay cương ngồi chầm chệ.
Sáng ra lên xe ngồi,
Đời xông pha bươm bả.
Khinh nhác lười, nhàn nhã,
Hò vang: mau đi thôi!
Đến trưa chí nhụt rồi
Thấy rãnh hào lòng nàn,
Nhìn núi đồi đâm hoảng:
“Đồ ngu, chầm chậm thôi!”
Chiều đã dần dần quen,
Tà tà đến quán trọ,
Mặc cho bánh xe lăn,
Thời gian xua vó ngựa.
1822
Khi ấy, sau hai năm chuyên học tiếng Nga, bước vào những năm đầu trường Đại học Sư phạm Moskva, chúng tôi bắt đầu lần lượt được học qua lịch sử văn học Nga từ cổ điển đến hiện đại. Phải đến năm thứ ba tôi mới được tiếp xúc sâu với tác phẩm của Puskin. Kỳ lạ là tôi thấy tác phẩm của Puskin không đến nỗi khó khăn quá, có thể hiểu được chỉ cần đọc cho kỹ. Chẳng hạn bài thơ trữ tình Chiếc xe đời có vẻ triết lý đấy, nhưng tôi thấy thích thú ngay. Có gì đó gợi hiện lên cho thấy ngay hình ảnh rõ ràng, ngờ ngợ và còn nhắn gọi cho tôi câu hát ru đã nhập tâm từ thuở thơ ấu: “Ngày giờ thấm thoắt thoi đưa, nó đi đi mãi có chờ đợi ai” và rồi gợi cả cho tôi nhớ câu thơ cổ mà thầy giáo đã giảng cho nghe trong một giờ học, trong đó hình ảnh thời gian lại như vó ngựa phóng qua bên ngoài cửa sổ (vó câu qua cửa)… Thế là tôi, điếc không sợ súng, bắt tay vào dịch thơ Puskin, và rồi sau này về công tác làm anh biên tập sách ở Nhà xuất bản Văn học, nhớ tới bài viết của nhà Việt Nam học người Nga có nhắc đến bản dịch của mình, nhân tậpThơ chữ Hán Nguyễn Du vừa in xong chở về Nhà xuất bản, được dịp tôi liền giở ra đọc và liền tìm thấy ngay ở phần đầu sách có bài thơ cũng cho tôi một ấn tượng gợi nhớ đến hình ảnh của thời gian hiện lên. Ấy là bài Tự thán1
Tấm thân sáu thước tuổi ba mươi
Đeo đẳng thông minh để tội trời
Chữ nghĩa vốn không ghen với mệnh
Đất trời sao lại ghét lầm ai?
Dở dang thư kiếm cơn cùng quẫn
Lần lữa xuân thu tóc bạc rồi
Những ước cạo đầu vào núi ẩn
Đàn thông nằm lắng tiếng lưng trời.
Từ đấy nghe theo lời khuyên của nhà Việt Nam học người Nga, theo đuổi công việc dịch thuật thơ văn Nga, trước hết là sáng tác của thi hào Nga A.S Puskin, bất giác tôi trở thành “người nghiên cứu” không chỉ văn học Nga, thơ văn Puskin mà đồng thời “người nghiên cứu” cả văn học nước nhà, nhất là những gì liên quan đến thi hào Việt Nam Nguyễn Du. Và cách đây cũng đã không ít thời gian, tự nhiên tôi cứ trở đi trở lại suy nghĩ về hai câu thơ của thi hào Việt Nam Nguyễn Du mà nhiều người cũng đã bàn tới: Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như Tôi cứ ngờ ngợ những lời bình của các bậc tiền nhân về hai câu thơ này, thường giải thích chữ “khấp” là “khóc” do đó mà cho đây là lời “than vãn” gợi ở người này, người kia “những cảm xúc và suy nghĩ bồi hồi, xót xa…”…
Tôi trở lại bài thơ Đài kỷ niệm của thi hào Nga A.S. Puskin viết ra năm 1836:
Ta đã dựng cho ta đài kỷ niệm
Không bởi sức tay người. Đường tới viếng
Cỏ không trùm dấu bước thế nhân,
Đỉnh tháp ngang tàng sẽ ngẩng cao hơn
Cả trụ thờ Alexandr Đệ nhất[2]
Nơi đàn thơ thiêng liêng ta không chết
Hồn ta còn sống mãi chẳng tiêu tan
Và trên đời dù chỉ còn một thi nhân
Danh tiếng ta vẫn còn vang mãi mãi
Trên khắp nẻo đất nước Nga vĩ đại
Tiếng thơm rồi sẽ đồn mãi về ta:
Từ cháu con kiêu hãnh Slava
Đến dân Phần, Tungu ngày nay còn man rợ,
Bằng ngôn ngữ riêng họ sẽ gọi tên ta.
Và nhân thế sẽ còn yêu ta mãi
Vì đàn thơ ta thức tỉnh tình thân ái,
Vì trong thuở bạo tàn ta đã ca ngợi tự do
Và gợi từ tâm đối với kẻ sa cơ.
Nàng thơ hỡi, hãy nghe lời Thượng đế:
Vinh quang không màng, nhọc nhằn sá kể,
Chẳng bận lòng với kẻ thích, người chê,
Chẳng hoài công cãi với đứa ngu si.
1836
Puskin tự hào sánh mình (đang chỉ là một chàng thi sĩ trẻ ngấp nghé ở tuổi tứ tuần, sống ở cái nước Nga nông nô chuyên chế) với bậc vĩ nhân cổ điển La Mã lừng danh ghi tên trong sử sách từ những thế kỷ 7-8 trước cả công nguyên (Horaxơ – Horatius Flaccus), lại ngẩng cao đầu hơn cả trụ thờ Sa hoàng Nga, hoàng đế Alexandre Đệ nhất (1777-1825) người đã chiến thắng trong cuộc chiến tranh vệ quốc 1812 và trụ thờ vị sa hoàng anh hùng này vừa được triều đình sa hoàng Nikolai Đệ nhất (1796-1855) cho xây dựng trên quảng trường lớn trước Cung điện Mùa Đông giữa kinh đô Peterburg cổ kính vào tháng 11 năm 1834, trước khi bài thơ Đài kỷ niệm của Puskin tự viết về mình có hai năm (1836).
Mới chỉ qua hai chi tiết khổ đầu bài thơ đã có thể thấy nhà thơ Nga chưa đầy bốn chục tuổi A.Puskin đâu phải con người tầm thường, ông không hề kinh sợ cả Sa Hoàng Nga Nikolai I (1796-1855) hơn nhà thơ 3 tuổi, ngay sau khi lên chấp chính vào năm 1825, đã hạ cố “ân xá” cho nhà thơ lúc đó đang bị quản thúc tại trang ấp dòng họ Mikhailovshoie, còn triệu nhà thơ vào triều và ra câu hỏi: “Nếu khanh có mặt ở kinh đô khi đó (tháng Chạp 1825 xẩy ra cuộc khởi nghĩa không thành của phong trào yêu nước đòi xóa bỏ chế độ nông nô mà về sau có tên là những người tháng Chạp) khanh có tham gia không?”; đã nhận được câu trả lời khẳng khái của Puskin: “Tất nhiên! vì bạn bè của thần đều có mặt!”. Ở bài thơ Đài kỷ niệm Puskin còn tỏ ra là người tự biết mình, tự tin ở sự nghiệp của mình, tài năng của mình, sự đóng góp của đời mình cho đất nước, nhân dân Nga, cho con người nói chung:
Và nhân thế sẽ còn yêu ta mãi,
Vì đàn thơ ta thức tỉnh tình thân ái,
Vì trong thuở bạo tàn ta đã ca ngợi tự do
Và gợi từ tâm với kẻ sa cơ…
Tài năng của Puskin đã được nhân dân thừa nhận ngay từ thuở nhà thơ còn ngồi trên ghế nhà trường. Những bài thơ trữ tình đầy dũng khí, ca ngợi tự do, đòi giải phóng nông nô, đòi hạnh phúc cho con người đã lan truyền rộng rãi động viên cho tầng lớp trí thức trẻ hăng hái trong các tổ chức yêu nước của phong trào tháng Chạp. Trong một ngày hội trường, có mặt đông đủ văn võ bá quan, đông đủ các bậc trưởng lão… khi nghe nhà thơ trẻ Puskin đọc một trong các sáng tác đầu tay của mình, bài “Những kỷ niệm về Hoàng thôn”, nhà thơ lão thành, chủ soái dòng văn học cổ điển Nga Derzavin G.R. (1745-1816) đã bật dậy đòi ôm hôn nhà thơ trẻ, và khi niềm xúc động lắng xuống, cụ già đã thốt lên: “Nó sẽ mọc cao che trùm tất cả chúng ta”. Năm 1822, sau khi Puskin sáng tác trường ca Ruslan và Ludmila, gửi tặng Zukovshi V.A (1783-1852), nhà thơ lão thành, một trong những người tạo dựng chủ nghĩa lãng mạn văn học Nga, Puskin đã nhận được chân dung của Zukovshi đáp tặng với lời đề kèm theo: "Người thầy chiến bại tặng trò chiến thắng ». Mỗi sáng tác của Puskin ra đời hầu như đều trở thành sự kiện của đời sống văn học đương thời Nga, nhiều tác phẩm trong số đó được dư luận công chúng cũng như các nhà phê bình đánh giá cao: Tiểu thuyết bằng thơEvgheni Onheghin được tôn là bộ “bách khoa toàn thư của xã hội Nga”, tiểu thuyết văn xuôi Người con gái viên đại úy, vở kịch – Boris Gođumov dựng lên những trang lịch sử ghi đậm tiếng nói của nhân dân Nga vv…
Và khi nhà thơ Puskin qua đời đột ngột sau cuộc đấu súng oan nghiệt báo chí Nga đã thốt lên là “Mặt trời thi ca Nga đã tắt”. Tuy nhiên sau đó vầng mặt trời vẫn chói lọi chiếu sáng đường cho đất nước Nga nhân dân Nga vượt qua mọi trở ngại khó khăn cuối cùng đi đến một đất nước Nga của nhân dân, xây dựng một xã hội mới, trở thành cường quốc sánh với các cường quốc bốn bể năm châu và tên tuổi A.Puskin không chỉ còn là tên tuổi thi hào của dân tộc Nga mà còn là thi hào của toàn nhân loại. Ngày nay nói đến nước Nga là người ta nhớ đến tên tuổi và sự nghiệp của Pushkin và ngược lại nói đến Pushkin người ta nhớ đến nước Nga.
Trở lại hai câu thơ của thi hào Việt Nam Nguyễn Du “Bất tri tam bách dư niên hậu / Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” ta cũng có thể nghĩ về trường hợp bài thơ di chúc Đài kỷ niệm của Puskin. Trong di sản của Nguyễn Du để lại người ta thường nhắc đến hai câu thơ trên được để ở cuối bài thơ Độc Tiểu Thanh ký. Với hoàn cảnh phong kiến bấy giờ nhiều tác phẩm của Nguyễn Du không còn lại nguyên bản, mà các thế hệ đương thời của tác giả hoặc hậu sinh truyền miệng rồi mỗi người tập hợp lại, xếp sắp theo ý riêng, rồi bàn luận theo chủ quan mỗi người. Riêng về bài Độc Tiểu Thanh ký có khi được đưa vào cuối Thanh Hiên thi tập, có khi xếp vào Bắc hành thi tập. Nhận định về bài thơ có người cho rằng “hai câu thơ cuối cùng… là hai câu thất niêm so với toàn bài : 6 câu đầu ở thể bằng, 2 câu cuối ở thể trắc. Lại có thuyết nói đó là hai câu “khẩu chiếm” (độc thoại) của Nguyễn Du lúc sắp mất (ông Nghè Nguyễn Mai cháu mười đời của Nguyễn Du, các ông Bùi Kỷ, Lê Thước, Phan Sĩ Bằng)”1.
Nhà thơ Xuân Diệu viết trong “Thay lời giới thiệu” Thơ chữ Hán Nguyễn Du”, Nxb Văn học, H.1988, có phân trần : “Không phải là một nhà nghiên cứu tôi bằng theo những tài liệu đã có, tìm lưa thưa dấu vết một thi hào tôi yêu mến. Tự mình không biết đọc chữ Hán, đọc phiên âm, hiểu qua phiên dịch, thế tất còn nhiều lõm bõm và khó tránh sai lầm. Đọc lại hai lần, ba lần, bốn năm lần, vẫn chưa nhận thấy mình nắm được một cái gì thật chắc lắm”. Nhớ đến lời của nhà phê bình Nga vĩ đại Belinski V.G (1811-1846) sau bảy năm Pushkin qua đời ; “Pushkin thuộc những hiện tượng sống động nhưng không dừng lại ở thời điểm cái chết bắt gặp ông ở đó, mà tiếp tục phát triển trong nhận thức của xã hội. Mỗi thời đại sẽ nói lên phán xét của mình ». Phải chăng về thi hào dân tộc Việt Nam Nguyễn Du của chúng ta cũng có thể mượn lời của nhà phê bình vĩ đại Nga Belinski nhận xét về Đại thi hào Nga A.S.Puskin để kiến giải những suy nghĩ của các thế hệ người Việt về thi hào dân tộc Nguyễn Du của mình.
Ngay từ năm 1941, còn là một thanh niên mất nước, mất văn học dân , thi sĩ Xuân Diệu khi đọc hai câu thơ « Ba trăm năm nữa ta không biết / Thiên hạ ai người khóc Tố Như », thi sĩ Xuân Diệu trong tâm trí « những bồi hồi, xa xót ». Tuy nhiên ngay khi đó cũng đã có gì ngờ ngợ. Ông đã hiểu chữ khấpđây không hẳn là khóc. “… Khóc đây là thương cảm cùng nhau, thấu hiểu nhau, quí hóa nhau. Khóc đây chưa hẳn là thảm sầu, mà là một nụ cười cũng có. Khóc đây chưa hẳn là khóc ai, mà còn là khóc với…. Lời kêu gọi của một trang tài tình, nghe êm ái ngậm ngùi như một tiếng chim cô lẻ dội giữa trời thu khuya. Đó là tiếng giã đời, nhưng cũng là tiếng hợp bạn, tiếng tuyệt vọng, nhưng cũng là tiếng hy vọng. Câu tự hỏi, nhưng cũng là tự trả lời…” Cộng với thêm giả thuyết của ông Nghè Nguyễn Mai cháu mười đời Nguyễn Du, của các bậc túc nho Bùi Kỷ, Lê Thước, Phan Sĩ Bằng cho câu thơ là “Khẩu chiếm” (độc thoại) thốt lên trước lúc nhắm mắt xuôi tay của thi hào, ta có thể nói cả bài thơ đó mang một ý nghĩa trăng trối, di chúc cho bạn bè, không khác gì bài thơ Đài kỷ niệm của Pushkin.
… Trong bao liệt truyện không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du lại đọc câu chuyện về Tiểu Thanh. Tiểu Thanh phải chăng cũng là chính Nguyễn Du. Tiểu Thanh là một nữ sĩ tài hoa, tài hoa đến mức chỉ chục bài thơ còn tình cờ sót lại mà đời sau vẫn truyền tụng. Trước khi Tiểu Thanh mất cho vẽ chân dung: lần thứ nhất hình dáng thì giống nhưng không có thần, bị từ chối. Lần thứ hai chân dung có thần, nhưng lại không giống. Cũng không được! Lần thứ ba cả hình dáng và thần thái đều hài hòa, bấy giờ xem xong Tiểu Thanh mới thở hơi thở cuối cùng.
Phải chăng đây cũng là quan niệm nghệ thuật cần phải hài hòa nội dung và hình thức mà chính Nguyễn Du từng tôn trọng và theo đuổi.
Cuộc đời sáng tác của Nguyễn Du là một mẫu mực của nghệ thuật, từ thơ sáng tác bằng chữ Hán, hay chữ Nôm, ta thấy Nguyễn Du đều chứa chan tình người, tràn đầy tính nhân đạo, được nhân dân yêu mến, trân trọng, giữ gìn và truyền bá qua hết đời này đến đời khác. Truyện Kiều là mẫu mực về câu thơ lục bát Việt Nam, kiệt tác về xã hội con người… Khi Nguyễn Du qua đời đã có những lời phúng viếng lưu truyền “Nhất đại tài hoa” (một kiếp tài hoa), “Đại gia văn tự thế tranh truyền” (Văn tự hơn đời tiếng dày vang).
Nguyễn Du qua Độc Tiểu Thanh ký cho thấy mình là con người cũng khẳng khái, dũng cảm tự tin vào sự đóng góp của mình với đời, về con người chính trực của mình sẽ sống mãi trong lòng các thế hệ nhân dân Việt Nam. Không phải 200 năm, nếu như tính từ khi Tiểu Thanh từ giã cõi đời đến khi Nguyễn Du đọc câu chuyện của nàng và cảm khái làm thơ, mà là 300 năm kia, nhưng “tam bách” dư niên hậu” ở đây cũng không thể hiểu là 300 năm thường tình mà đó phải hiểu là “mãi mãi”. Quả vậy cuộc đời và sự nghiệp của thi hào Nguyễn Du Việt Nam gắn với lịch sử đi cùng với hạnh phúc của nhân dân Việt Nam ta, không khác gì cuộc đời và sự nghiệp của thi hào Nga gắn với lịch sử đi tới ngày vinh quang của nhân dân Nga. Là hai thi hào của hai dân tộc, ngày nay khi Việt Nam đã “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” thi hào Nguyễn Du Việt Nam cũng trở thành thi hào của nhân loại. Năm 1965 Nguyễn Du đã được Hội đồng Hòa bình Thế giới tôn vinh và năm 2015 đã được UNESCO vinh danh là danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩmTruyện Kiều kiệt tác của Nguyễn Du đã được phổ biến bằng gần 30 thứ tiếng trên thế giới.
Xét tầm vóc thi ca của Nguyễn Du và A. Puskin trong văn học dân tộc Việt Nam và Nga, cũng như trong dòng chảy chung của văn học thế giới, tôi nghĩ có thể nói đó là hai đại thi hào của hai dân tộc, hai đại thi hào của cả nhân loại.
Hà Nội 7.2019
HTT