"CUNG ĐÀN THÚY KIỀU", MỘT CA KHÚC ĐẶC SẮC



LTS: Một ca khúc kết hợp nhuần nhuyễn hơi thở của ca trù cổ xưa và phong cách đương đại, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đời thường và sân khấu âm nhạc, giữa ca sĩ và nhạc sĩ . Theo Triết học thì đó là "sự thống nhất của 2 mặt đối lập" hay nói cách khác là sự kết hợp nhuần nhuyễn 2 mặt đối lập. Xin trân trong giới thiệu với độc giả nhạc phẩm này của Ngọc Thịnh ( Bản MP3).


DOANH NHÂN VỚI TRUYỆN KIỀU Và TRUYỆN KIỀU VỚI DOANH NHÂN, MỘT HỘI THẢO ĐÁNG QUAN TÂM


 Để  kỷ niệm 197 năm ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du (10/8 Đinh Dậu) và tiến tới kỷ niệm ngày doanh nhân Việt Nam 13-10, Hội Kiều học Việt Nam phối hợp với Công ty HANVICO tổ chức hội thảo này.
             > Thành phần:
- Các doanh nhân trong và ngoài nước.
- Các nhà nghiên cứu văn hóa trong cả nước.

            > Khách mời:

- Ban Tuyên giáo Trung ương và Hà Nội
- Lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh
- Đài Truyền hình Việt Nam
- Đài Tiếng nói Việt Nam
- Đại diện một số doanh nghiệp và tổ chức liên quan.

            >Thời gian: Thứ 7 váo 8 giờ ngày 30/9/2017.
> Địa điểm: Hội trường tầng 2, NXB Tài nguyên - môi trường và Bản đồ Việt Nam, số 85 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội.
> Đơn vị tổ chức:        Hội Kiều học Việt Nam và Tổng Công ty Hanvico.
                                      Đồng chủ trì: GS Phong Lê và TS. Phạm Văn Tuần.

HẢI ĐƯỜNG LẢ NGỌN ĐÔNG LÂN


Hoa Hải Đường

                                                                                                                             Vĩnh Sinh
Ở miền Bắc và miền Trung có một loài hoa đẹp nở vào đầu xuân, thân và cành cây cứng cáp, cao vừa phải; hoa năm cánh màu trắng, đỏ thắm hay hồng tươi; nhụy hoa màuvàng đậm nhưng không có hương thơm. Dân gian quen gọi loài hoa này là hoa “hải đường”. Trong Từ điển tiếng Việt (1997), cây “hải đường” được định nghĩa là “Cây nhỡ cùng họ với chè, là dày có răng cưa, hoa màu đỏ trông làm cảnh”. Từ điển Việt-Anh và Việt-Pháp thường dịch “hải đường” là camellia/ camélia.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhắc đến hoa hải đường hai lần nhằm gợi đến nàng Kiều:
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà 1.
(Hàng 175-178)
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng
(hàng 1283 – 1284)
Sự cách biệt giữa một cây mang tên là “hải đường” có thân và cành cây cứng cáp mà tôi hằng thấy trong những khu vườn cổ ở Huế, với ấn tượng về một cây hải đường mảnh khảnh như đã được miêu tả qua những vần thơ trên đã khién tôi thắc mắc trong một thời gian khá lâu. Không lẽ Tiên Điền tiên sinh lại miêu tả cây hải đường thiếu chính xác đến thế? Niềm hoài nghi đó được giải tỏa khi chúng tôi tình cờ được thấy tận mắt cây hải đường đúng như tiên sinh đã miêu họa trong Kiều.
Một sáng mùa xuân cách đây đã có hơn 40 năm (ngày đó tôi còn là một du học sinh ở Nhật), khi đang đi bách bộ quanh khu cư xá du học sinh ở một vùng khá yên tĩnh tại Đông kinh, tôi chợt thấy một cây hoa mảnh khảnh, cành trĩu hoa màu hồng tươi. Loài hoa này tôi chưa bao giờ thấy ở Việt Nam. Nhân có người đi qua, tôi hỏi hoa ấy tên gì. Ông ta bảo : “Kaidô desu yo” (Hải đường đấy mà!). KHông hiểu linh tính nào đó đã cho tôi biết Kaidô địch thị là loài hoa hải đường “lả ngọn đông lân”mà Nguyễn Du đã nhắc đến trong Kiều! Cho đến bây giờ khi ngồi viết những dòng này, tôi vẫn chưa quên được cảm giác khoan khoái nhẹ nhàng lúc đó khi vừa vỡ lẽ một điều thắc mắc đã ám ảnh tôi khá lâu.
Đại từ điển tiếng Nhật Nihongo daijiten định nghĩa cây hải đường ở Trung Quốc (haitang) và ở Nhật (kaidô) như sau:
“Cây nhỡ rụng lá, thuộc họ tường vi (rose) trồng làm cây kiểng trong vườn. Hoa nở vào tháng 4 dươnglịch, sắc hồng nhạt. Loại có trái giống như quả táo tây, có thể ăn được. Cao từ 2 đến 4 mét”. Cuốn từ điển này còn chua thêm là hoa hải đường dùng để ví với người con gái đẹp, đặc biệt khi muốn nói lên nét gợi cảm hay vẻ xuân tình. Theo “Dương Quý Phi truyện” trong Đường thư, một hôm Đường Minh Hoàng ghé thăm Dương Quý Phi, nghe nàng còn chưa tỉnh giấc, nhà vua bảo: “Hải đường thụy vị túc da?”, nghĩa là “Hải đường ngủ chưa đủ sao?”. Trong văn học cổ Trung Quốc, cành hoa hải đường trong cơn mưa thường dùng để ví với dáng vẻ người con gái đẹp mang tâm trạng u sầu. Tên khoa học của cây hải đường là Malus spectabillis; tiếng Anh gọi là flowering cherry-apple (hay Chinese flowering apple, Japanese flowering crab-apple và nhiều tên khác nữa), tiếng Pháp gọi là Pommier sauvage.
Như vậy tên tiếng Việt của cây camellia/camélia mà từ trước đến nay ta thường gọi lầm là “hải đường”đúng ra phải gọi là gì? Có người gọi camellia/camélia là hoa trà, hay trà hoa. Chẳng hạn, tiểu thuyết La Dame aux camélias của Alexandre Dumas (Dumas fils) trước đây có người dịch là “Trà hoa nữ” hay “Trà hoa nữ sử” và Từ điển Việt Anh của soạn giả Bùi Phụng cũng dịch “trà hoa” là camellia. Tuy dịch camellia là trà hoa (hay hoa trà) nghe có lý hơn là “hải đường”, nhưng theo thiển ý cũng chưa được ổn cho lắm vì hoa trà chỉ có màu trắng mà còn có màu hồng và màu đỏ. Ta thử xem người Nhật và người Trung Quốc gọi camellia/camélia là gì. Tiếng Nhât gọi cây này là Tsubaki, chữ Hán viết là “xuân”, gồm chữ bộ “mộc”bên trái và chữ “xuân”là mùa xuân bên phải. Chữ “xuân”dùng trong nghĩa này nghe quá lạ tai đối với người Việt. Người Trung Quốc gọi camellia/camélia là shancha (sơn trà), sơn trà nghe cũng thuận tai và khá sát sao vì cây này cùng họ với cây chè (trà) và sơn trà nên hiểu là cây “trà dại”hay một biến thể của cây trà.
Đang phân vân chưa biết dùng từ nào trong tiếng Việt để dịch camellia/camélia cho thật sát nghĩa, chúng tôi lướt xem Truyện Kiều một lần nữa. Nào ngờ lời giải cho điều thắc mắc của chúng tôi đã có sẵn ngay trongđó: cụ Nguyễn Du trong tác phẩm bất hủ của mình cũng đã dùng hoa “trà mi”nhằm ám chỉ nàng Kiều, và trà mi chính là từ tiếng Việt tương ứng với camellia/camélia:
Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
(hàng 845-846)
Hoặc:
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm gương nửa vành.
(hàng 1091-1092)
Nhưng do đâu chúng ta có thể khẳng định như thế? Việt Nam từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức giải thích về hoa “trà mi”như sau: “thứ cây, có hoa đẹp, sắc đỏ, hoặc trằng mà không thơm”. Trà mi cùng họ với cây chè, có sắc đỏ hoặc trăng, và không có hương thơm – đó chính là những đặc điểm của cây camellia/camélia mà chúng ta đã đề cập ngay ở đầu bài.
Một điều thú vị và rất đáng chú ý: “trà mi”là một tên gọi thuần Nôm, không có trong chữ Hán! Nói môt cách khác,thay vì gọi “sơn trà”như người Trung Quốc, ta chọn tên “trà mi”là cách gọi riêng của người Việt. Trong ấn bản chữ Nôm của Truyện Kiều (bản Lâm Nhu Phu, 1870), hai chữ “trà mi”được viết bằng hai chữ Nôm như sau: chữ “trà”được viết với bộ “dậu” với chữ “mi”là cây kê bên phải (từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức mượn chữ “mi”tiếng Nôm này). Trong Từ điển Truyện Kiều, học giả Đào Duy Anh trong phần văn bản viết hai chữ “trà mi”là “trà(đồ)mi”nhằm gợi ý “trà mi” cũng có thể đọc là “đồ mi”, tuy nhiên trong phần “Từ điển” lại giải thích là “nước ta có hoa trà mi, nhưng khác với đồ mi của Trung Quốc”. Theo thiển ý, hai chữ Nôm nói trên chỉ có cách đọc là “trà mi”chứ không thể đọc là “đồ mi”, vì trong chữ Han, loài “cây nhỏ, cành lá có gai, đầu mùa hè nở hoa sắc trằng, hoa nở sau các thứ hoa cây khac” mà Đào tiên sinh đã giải thich về “hoa đồ mi” trong cuốn Hán Việt từ điển do tiên sinh biên soạn, chính là hoa mâm xôi (Robus rosacfolius) trongtiếng Việt.
Qua bài viết ngắn ngủi này, chúng tôi hy vọng đã chứng mình được rằng cây hải đường mà chứng ta thường ngỡ là tương ứng với cây camellia/camélia trong tiếng Anh và tiếng Pháp kỳ thực là một loài cây có hoa khác, có tên khoa học là Malus spectabilis. Mặt khác, tên gọi tiếng Việt của hoa camellia/camélia đúng ra phải là trà mi.
Trong Truyện Kiều, cụ Tiên Điền Nguyễn Du – nhà thơ muôn thuở của dân tộc Việt Nam – đã dùng tên của hai loài hoa này chính xác và tách bạch. Tiên Điền tiên sinh mượn hoa hải đường nhằm nói lên những nét yểu điệu gợi cảm của nàng Kiều qua bóng dáng của một Dương Quý Phi kiều diễm. Khi định mệnh đã đưa đẩy Kiều vào tay của Mã Giám Sinh và Sở Khanh – những kẻ “thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương” – tiên sinh đã mượn hình tượng của đóa hoa trà mi nhằm nói lên kiếp hồng nhan trước những thử thách quá ư nghiệt ngã của số phận.
Nhân thể, chúng tôi cũng xin nói rằng trong Đại Nam nhất thống chí, trong phần nói vê các loài hoa ở “Kinh sư”(Huế) và “Phủ Thừa Thiên”, có đoạn nhắc đến hoa hải đường. Vì có liên quan đến bài viết này, chúng tôi xin trích lại nguyên văn: “Kính xét bài thơ ‘Vịnh hải đường’trong Minh Mệnh thánh chế có lời chú rằng: Theo Quần phương phả thì hải đường có bốn loại, là chiêm cánh, tây phủ, thùy lục và mộc qua, ngoài ra lại có hoa vàng loại hoa thơm, nhưng đều là cánh mềm, hoa nhỏ, hoặc sắc vàng, hoặc đỏ lợt, hoặc như yên chỉ, chí có mấy sắc ấy thôi, hải đường phương Nam thì cây cao, lá to vừa dài vừa nhọn hoặc sắc đỏ tươi, ruột có nhị, cánh to mà dày, lúc nở đẹp hơnhoa phù dung, nên tục gọi là “sen cạn”; so với hải đường ở đất Thục thì đẹp hơn nhiều, tựa hồ phương Bắc không có giống hoa hải đường này, cho nên những lời trước thuật có khác. Còn như nói rằng ‘hoa đẹp lá tươi, mềm mại như xử nữ, hây say như Dương Phi say, yểu điệu như Tây Tử thực chưa hình dung hết được vẻ đẹp của hoa ây. Năm Minh Mệnh thứ 17 khắc hình tượng vào Nghị đỉnh. Lại có một loại là Kim ti hải đường”.
Đọc đoạn trích dẫn ở trên, ta có thể thấy là ngay từ thời vua Minh Mệnh đã có sự nhầm lẫn giữa hoa hải đường và hoa trà mi. Những loại hoa có “cánh mềm” trong phần trích dẫn đúng là hoa hải đường, nhưng loại hoa gọi là “Hải đường phương Nam thì cây cao, lá vừa to vừa dài vừa nhọn, hoặc sắc đỏ tươi, ruột có nhị, cánh to mà dày…”thì đúng ra phải gọi là hoa trà mi chứ không phải là hoa hải đường.
Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước đó (dưới triều vua Gia Long), nhưng tại sao thi hào họ Nguyễn lại có thể phân biệt hai loại hoa này rạch ròi đến thế? Chúng ta có thể phỏng đoán là ngoài những kiến thức thu thập qua sách vở, chắc hẳn Nguyễn Du đã thấy tận mắt hai loài hoa này trong lần đi sứ sang Trung Quốc vào năm 1813.
Một thức giả cũng vừa cho chúng tôi hay là khi tìm trong Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế (Nxb Hà Nội, 1991) hai câu có từ “hải đường” trích dẫn ở trên thì “thấy đó là những câu tả cảnh tả tình do Nguyễn Du sáng tác”, chứ không có trong nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (bản của Nguyễn Đình Diệm). Điều này càng xác nhận sự hiểu biết chính xác về cây cỏ cũng như tinh thần “vận dụng sáng tạo”của Tiên Điền tiên sinh khi viết Truyện Kiều.■
1. Theo học giả Hoàng Xuân Hãn và một số nhà nghiên cứu khác, chữ “gieo”trong câu này phải đọc “treo” mới đúng, hoăc chữ “tỏ”trong câu “con ong đã tỏ đường đi lối về”phải đọc là “mở”. Vì chưa bắt kịp với những nghiên cứu về Truyện Kiều hiện nay, trong khuôn khổ bài này chúng tôi xin tạm thời dựa theo cách đọc hiện hành.


THÔNG BÁO MỜI DỰ LỄ DÂNG HƯƠNG TƯỞNG NIỆM LẦN THỨ 197 NGÀY MẤT ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU VÀO 7 GIỜ NGÀY 29-9-2017



GS. Phong Lê phát biểu tại Lễ giỗ lần thứ 196 Đại thi hào Nguyễn Du
Ngày 08/9/1924 (10/8/ Giáp Tý), Ban Văn học Hội khai trí Tiến Đức tổ chức giỗ lần thứ 104 Đại thi hào Nguyễn Du với sự tham gia của nhiều học giả, nhân sĩ, trí thức nổi tiếng cả nước.
Ngày 10/09/2016 (10/8/ Bính Thân), tỉnh Hà Tĩnh, Hội Kiều học Việt Nam đã phối hợp tổ chức giỗ lần thứ 196 Đại thi hào Nguyễn Du tại Tiên Điền, Nghi Xuân với sự tham gia của nhiều học giả nổi tiếng và các hội viên Hội Kiều học Việt Nam trong toàn quốc.
Năm nay, vào chiều 29/9/2017 (10/8/ Đinh Dậu), Văn phòng Đại diện Hội kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh sẽ tổ chức Lễ dâng hương tưởng niệm lần thứ 197 ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du và Lễ phát thẻ Hội viên, Báo cáo chương trình hoạt động năm 2017.
Thành phần tham dự:
Tham dự buổi lễ sẽ có lãnh đạo Hội Kiều học Việt Nam, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh, UBND huyện Nghi Xuân; Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du; 62 Hội viên Hội kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh và Phóng viên Báo Hà Tĩnh, Đài PTTH Hà Tĩnh, Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh.
Thời gian, địa điểm:
- Thời gian:  7giờ 15 đến 11 giờ 30 ngày 29/9/2017
- Địa điểm: Khu di tích Đại Thi hào Nguyễn Du, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân

Dâng hương tại mộ giỗ lần thứ 196 Đại thi hào Nguyễn Du

        Chương trình sẽ có các nội dung chính sau:
1. Dâng hương, hoa tại khu mộ: 7giờ 15 đến 7 giờ 45 ngày 29/9/2017
2. Dâng hương tại nhà thờ: 8 giờ 00 đến 8 giờ 45 ngày 29/9/2017
3. Lễ trao tặng mộc bản về danh nhân văn hóa Thế giới Đại Thi hào Nguyễn Du của Cục Văn thư và lưu trữ Nhà nước: từ 9giờ 00 đến 10h giờ 00 ngày 29/9/2017. Địa điểm: Hội trường lớn Ban quản lý di tích Nguyễn Du.
3. Lễ trao thẻ hội viên và sinh hoạt hội quý III/2017: từ 10giờ 00 đến 11h giờ 30 ngày 29/9/2017. Địa điểm: Hội trường lớn Ban quản lý di tích Nguyễn Du.
      4. Mời cơn thân mật các hội viên và đại biểu dự lễ.  11 giờ 30 ngày 29/9/2017
                        Vậy xin thông báo để các hội viên quan tâm, sắp xếp thời gian dự lễ.
(Có xe đưa đón các đại biểu và hội viên đi dự lễ xuất phát từ Văn phòng Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, số 18, Đại lộ xô viết Nghệ Tĩnh, thành phố Hà Tĩnh, xuất phát vào lúc 6 giờ 15’. Quý vị đăng ký qua điện thoại của bà Nguyễn Thị Nga: 0979560622)

VĂN TẾ ĐẠI THI HÀO DÂN TỘC NGUYỄN DU TẠI LỄ GIỖ LẦN THỨ 196 (10/8 BÍNH THÂN)


 Nhà văn Hoàng Khôi (Vũ Ngọc Khôi), phụng đọc tại buổi lễ. Ảnh: TVS

Phụng soạn: Nhà thơ Hoài Yên quê An Khánh, Hà Đông, Hà Nội.
       Phụng đọc: Nhà văn Hoàng Khôi (Vũ Ngọc Khôi) 

(Tùng! Tùng Tùng!)
Ô hô…!
1. Mây Hồng Lĩnh khi tan khi hợp, thiết tha câu hữu cảm tất thông (Tùng)
Nước Lam giang lúc đục lúc trong, khẩn khoản chữ hữu cầu tất ứng (Tùng!Tùng!Tùng)
Nhớ linh xưa,
        2. Từ Nguyễn Thiến tại miền Canh Hoạch / danh để khoa bảng đầu tiên (Tùng)
   Đến Tố Như ở chốn Tiên Điền / nghiệp nối thi thư đệ nhất (Tùng/Tùng/Tùng).
         3. Cả dòng tộc thấm nhuần ơn mưa móc / dẫu đã biết Lê Triều
                                mạt vận / chữ cô trung luôn dạ tạc lòng ghi (Tùng)
          Tấm tình riêng cảm phục đấng anh hùng / Dù cho rằng Nguyễn Huệ                                                                                                                                    
                    ngụy triều / vẫn tôn kính dẫu nhà tan nước mất (Tùng/Tùng/Tùng)     

                                    NHỚ TIÊN SINH
4. Bản chất hào hoa phong nhã / thông tuệ tính trời (Tùng)
                           Nếp nhà phú hậu danh gia / văn chương nết đất. (Tùng/Tùng/Tùng)
          5.  Ra Thăng Long khi cha mẹ mất / nhờ anh trai nuôi dưỡng /
                       học hành hôm sớm chuyên cần (Tùng)
             6. Vào Quỳnh Phụ lúc cửa nhà tan / cậy bố vợ cưu mang /
                                      lưu lạc tháng ngày tất bật. (Tùng/Tùng/Tùng)
        
                                         THƯƠNG ƠI!
                        7.  Hiền thảo nhân tình
                                Uyên thâm học vấn (Tùng).
                        8. Chí lớn mà chẳng gặp thời 
                           Tài cao nhưng đành lỡ vận! (Tùng/Tùng/Tùng)
          9. Ba mươi tuổi, mái đầu  trắng tuyết / thư kiếm dở dang (Tùng)
         Mười năm trời, kiếp sống lầm than / thân danh lận đận! (Tùng/Tùng/Tùng)
          10. Về Tiên Điền đất tổ / từng sắm vai liệp hộ nhiều phen (Tùng)
             Ở Hà Tĩnh quê cha / đã thử sức điếu đồ lắm bận. (Tùng/Tùng/Tùng)    
         11. Sức nho sinh trói gà không nổi /
                                    thú điền viên, quá sức nhọc nhằn (Tùng)
             Tài kẻ sĩ nổi tiếng mà chi /
                                    Chuyện tiền bạc, vô cùng túng quẫn! (Tùng/Tùng/Tùng)


          12. Khi đi chơi phường vải / đối thoại cùng o Sạ, o Uy (Tùng)
             Lúc dự hát ca trù / giao kết với Trường Lưu, Cổ Đạm (Tùng/Tùng/Tùng)
          13. Đọc sách cổ / gặp Kim Vân Kiều truyện /
                                           cả tình cả ý tương liên (Tùng)
              Múa bút thần / viết Đoạn Trường Tân Thanh / 
                                            chữ mệnh chữ tài tương đố!  (Tùng/Tùng/Tùng)
14. Giấc đoạn trường, giọt máu chảy đầu ngọn bút/ con mắt trông sáu cõi sâu sa (Tùng)
Khúc bạc mệnh, nước mắt thấm trên tờ hoa/ tấm lòng nghĩ tời ngàn đời gắn bó (Tùng/Tùng/Tùng)
          15. Thơ dự vào hàng ngũ tuyệt / văn tài nhả ngọc phun châu (Tùng)          
       Nôm đứng ở bảng đầu tiên / diệu nghệ thêu hoa dệt gấm. (Tùng/Tùng/Tùng)     

                                  TỚI NAY CHÚNG CON
           16.  Thưởng  thơ Nguyễn / người đều khóc Nguyễn /
                                  đời đắng cay tựa ớt tựa gừng (Tùng)
                Xem Truyện Kiều / ai nấy thương Kiều /
                                  kiếp chua chát như sung như mận! (Tùng/Tùng/Tùng)
         
           17. Khác mệnh Kiều nhiều năm trời lận đận / xứ Hồng Lam đang rạng rỡ, hanh thông (Tùng)
            Mới quê hương lắm khuôn mặt trẻ trung / dân Hà Tĩnh đang chung tay phát triển (Tùng/Tùng/Tùng)
           18. Đất địa linh ngút ngàn hồn thiêng sông núi/ mong người phù hộ độ trì để quốc thái – dân an (Tùng)
                Vùng nhân kiệt chan chứa anh linh thi hào / khấn cụ dắt dìu nâng đỡ cho quê giàu, nước mạnh (Tùng/Tùng/Tùng)
             19. Hội Kiều học / luận bình nghiên cứu /                
                                                tác phẩm mãi vang xa (Tùng/Tùng)
               UNESCO / công nhận tôn vinh  /
                                                Phương danh càng sâu đậm! (Tùng/Tùng/Tùng)
    
                                              THỰC LÀ:
                                    Một đời vinh hiển ngàn thâu
                                 Phải đâu một nấm cỏ khâu xanh rì!
              Ô hô…! Phục duy! Thượng hưởng (Tùng!Tùng!Tùng…)

                                                                                             một hồi trống)

VÀI SUY NGHĨ VỀ KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA NGUYỄN DU - TRUYỆN KIỀU ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH HÀ TĨNH

Nhà thơ Huy Cận với bạn yêu thơ trong Ngày thơ Việt Nam lần thứ Nhất, tổ chức vào Rằm tháng Giêng năm 2003
tại Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du, Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ảnh: TVS


                   THÁI VĂN SINH

            1. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại một di sản văn hóa phi vật thể đồ sộ với nhiều tác phẩm văn chương bất hủ, cả chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán có ba tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục với 250 bài. Về chữ Nôm, có: Văn chiêu hồn (184 câu viết theo thể song thất lục bát), Thác lời trai phường nón (48 câu, viết bằng thể lục bát) và Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ (98 câu, viết theo lối văn tế)…
            Đặc biệt, với kiệt tác thơ Nôm Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) gồm 3254 câu thơ theo thể lục bát, đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi của một quốc gia, trở thành một phần tinh hoa của văn hóa nhân loại, ghi dấu ấn văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế. Cho đến nay,  kiệt tác Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới với 35 bản dịch. Truyện Kiều đã làm cho Nguyễn Du, được sánh ngang với các đại thi hào của thế giới như: Aleksandr Sergeyevich Puskin (Nga), Johann Wolfgang von Goethe (Đức), William Shakespeare (Anh)...
Với những cống hiến của Đại thi hào Nguyễn Du cho nền văn học nước nhà và sự phát triển văn hóa của nhân loại, tháng 12/1964, Hội đồng Hòa bình thế giới ra quyết nghị tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du (1675-1965) cùng với 8 danh nhân văn hoá trên toàn thế giới. Và vào ngày 25/10/2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã chính thức ban hành Nghị quyết số 37C/15 vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 Danh nhân văn hóa toàn thế giới nhân kỷ niệm 250 năm năm sinh của ông.
Như vậy đã từ lâu, Nguyễn Du và Truyện Kiều đã trở thành một phần giá trị quan trọng được tôn vinh trong di sản văn hóa nhân loại.
2. Du lịch văn hóa là xu hướng của các nước đang phát triển vì nó đem lại những giá trị lớn cho cộng đồng xã hội, và vì thế mà loại hình du lịch này đã trở thành nội dung chính của Hội nghị Bộ trưởng Du lịch Đông Á - Thái Bình Dương, được nhóm họp 2 năm một lần (Lần mới đây nhất vào ngày 11/06/2014 tại Việt Nam). Hà Tĩnh có một tài nguyên du lịch văn hóa phong phú với 02 đi tích cấp Quốc gia đặc biệt, 75 di tích cấp Quốc gia và gần 400 di tích cấp tỉnh, cùng nhiều loại hình văn nghệ dân gian đặc sắc, nhiều làng nghề, lễ hội truyền thống tồn tại và phát triển hàng trăm năm. Bên cạnh đó Hà Tĩnh có hai di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận: Ca trù di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp (năm 2009) và dân ca Ví, Giặm di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại ( năm 2014).
Trong du lịch văn hóa thì các di tích danh nhân và những di sản phi vật thể của danh nhân là một trong những điểm mà du khách rất quan tâm khám phá. Cùng với các Khu di tích Trần Phú, Hà Huy Tập, Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du đã trở thành một điểm nhấn nổi bật trong bản đồ du lịch danh nhân của Hà Tĩnh. Khi đến tham quan khu di tích này, du khách thường khám phá các điểm sau:
Nhà thờ Nguyễn Du: Năm 1824, Nguyễn Ngũ cùng con cháu trong dòng họ đã đưa hài cốt Nguyễn Du về quê nhà cải táng và lập đền thờ ngay trên khu vườn cũ của ông tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (nay là thôn Thuận Mỹ, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân). Khoảng thời gian từ năm 1934 -1935 nhà thờ bị hỏng. Năm 1940, Hội Khai trí Tiến Đức cùng con cháu họ Nguyễn Tiên Điền xây dựng nhà thờ trong khu vườn họ Nguyễn. Năm 2010, nhà thờ Đại thi hào Nguyễn Du được xây dựng mới và khánh thành vào tháng 11/2012.
Nhà Văn thánh - Bình văn: Văn thánh hàng huyện thờ Khổng Tử do Nguyễn Nghiễm xây dựng. Trước đây, mỗi dịp xuân về các bậc túc nho trong vùng về đây báo ơn, bình văn, đọc thơ và tổ chức lễ "cầu khoa" cầu cho con em trong vùng thành danh trên con đường khoa cử.
Đàn tế, bia đá Nguyễn Quỳnh (ông nội Nguyễn Du): Năm 1762, sau khi Nguyễn Nghiễm được phong Tể tướng, ông cùng em trai là Nguyễn Trọng lập đàn tế, dựng bia đá tưởng nhớ công ơn của cha mẹ.
Mộ Đại thi hào Nguyễn Du: Nguyễn Du lâm bệnh và mất tại Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (ngày 16 tháng 9 năm 1820) thọ 55 tuổi. Phần mộ đặt tại cánh đồng Bàu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1824, con là Nguyễn Ngũ và cháu là Nguyễn Thắng dời về cải táng trong vườn nhà tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (nay là thôn Thuận Mỹ, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân). Với dự án Tôn tạo khu di tích Nguyễn Du bằng nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá (1999 -2004), khu mộ đã được xây dựng, chỉnh trang lại như hiện nay.
Đền thờ, mộ Nguyễn Nghiễm (1708-1776): Nguyễn Nghiễm là con trai thứ hai của Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh và là thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du. Ông là nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà sử học uyên bác và là người đứng đầu về con đường cử nghiệp, khoa bảng họ Nguyễn - Tiên Điền. Ông đậu tiến sỹ năm 1731, làm Tế tửu Quốc Tử Giám (1742), giữ chức Tể tướng (1762) và trong gần 50 năm làm quan của mình, ông đã để lại nhiều trước tác có giá trị như: “Quân trung liện vịnh”, “Xuân đình tạp vịnh”, “Cổ lễ nhạc thi văn” và bài phú Nôm “Khổng Tử mộng Chu Công”... Đền thờ được xây dựng khi ông còn sống (sinh từ), thuộc thôn Bảo Kệ, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân và nhân dân thường gọi đây là đền “Đức Đại vương hai”. Phần mộ ông hiện nằm tại thôn Tiên Thanh xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân.
Đền thờ Nguyễn Trọng (1710 - 1789), Nguyễn Trọng là chú ruột của Nguyễn Du, người giỏi về văn thơ, lý, số, y học. Đền thờ được xây dựng khi ông còn sống (sinh từ)) ở thôn Tiên Quang, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân. Kiến trúc đơn giản, nội thất còn giữ lại nhiều đồ tế khí, hoành phi câu đối có giá trị. Trước đền thờ có voi, ngựa đá, tấm bia Tích thiện gia” và trong khuôn viên còn có mộ phần của ông.
Khu lăng Văn Sự: Là khu mộ tổ đời thứ 3 của họ Nguyễn - Tiên Điền, gồm mộ Nguyễn Thể - thân phụ Nguyễn Quỳnh; Thuật Hiên công Nguyễn Khản; Phương Trạch hầu Nguyễn Ổn; Chính thất Lê Quý thị (vợ Phương Trạch hầu); Giới Hiên công Nguyễn Huệ và chính thất Nguyễn Quý Thị (vợ Nguyễn Huệ).
Không gian văn hóa Nguyễn Du: Xây dựng vào năm 2000, gồm Tượng đài, Thư viện Nguyễn Du, Hội trường; Nhà thờ, Nhà bảo tàng Nguyễn Du...
3. Mặc dù là một điểm nhấn trong quy hoạch du lịch - di sản của Hà Tĩnh nhưng thực sự Khu di tích này vẫn chưa phát triển đúng tầm vóc vốn có của nó. Đến nay, mỗi năm Khu lưu niệm Nguyễn Du đón từ 1,8 đến 2 vạn lượt khách trong và ngoài nước đến tham quan. Trong khi đó, nằm trong chuỗi du lịch lịch sử - văn hóa Hà Tĩnh, Khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc đã có đến gần 30 vạn du khách trong và ngoài nước đến tham quan mỗi năm, gấp gần 15 lần so với di tích Nguyễn Du. Nguyên nhân cơ bản theo chúng tôi là kinh phí đầu tư cho di tích Nguyễn Du vẫn còn quá khiêm tốn nên sản phẩm du lịch văn hóa ở đây chưa thu hút được du khách. Theo thống kê chưa đầy đủ thì kinh phí đầu tư trùng tu tôn tạo di tích này trong gần 25 qua, kể từ ngày tái lập tỉnh đến nay chỉ mới gần 50 tỷ đồng, trong đó cho đợt kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Đại thi hào là 23 tỷ đồng. Nếu so sánh với kinh phí trùng tu, tôn tạo và các hoạt động kỷ niệm cho một số di tích danh nhân khác trên địa bàn trong nhiều năm lại đây thường là xấp xỉ 100 tỷ đồng thì quả là mức đầu tư quá khiêm tốn so với một danh nhân văn hóa thế giới.
Cách đây trên 10 năm, một doanh nhân nước ngoài đã có ý tưởng xin đầu tư vào Khu di tích này bằng cách tái tạo lại không gian văn hóa Truyện Kiều để vừa thu hút du khách, quảng bá các giá trị di sản văn hóa Nguyễn Du, vừa làm trường quay giả cổ để quay phim cổ trang như Hàn Quốc và Trung Quốc từng làm. Tuy nhiên, vì nhiều lý do nên ý tưởng này không thực hiện được.
Ngày 21/6/2005, với nỗ lực tham mưu của ngành văn hóa và lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh, Văn phòng Chính phủ đã ra Thông báo số 117/TB-VPCP trong đó có nội dung đồng ý chủ trương tổ chức kỷ niệm 240 năm ngày sinh Đại thi hào và lập quy hoạch xây dựng Dự án Khu văn hóa - Du lịch Nguyễn Du. Và chính thức từ đây vấn đề đầu tư để phát huy giá trị di sản Nguyễn Du - Truyện Kiều theo hướng phát triển du lịch được đặt ra một cách bài bản. Đây là một điều rất đáng phấn khởi cho những ai yêu kính Nguyễn Du và Truyện Kiều. Tuy nhiên qua gần một thập kỷ, vấn đề này vẫn chỉ mới là quy hoạch và quy hoạch này cũng đã thay đổi so với ý tưởng ban đầu.
            Năm 2005, quy hoạch này có tên là Quy hoạch xây dựng Khu văn hóa - Du lịch Nguyễn Du với ý tưởng vật thể hóa và tạo hình hóa văn chương và cuộc đời của Nguyễn Du. Cụ thể bằng phương pháp sử dụng các yếu tố kiến trúc và cảnh quan, tượng và nhóm tượng, phù điêu, tranh tường cùng nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật xếp đặt trong không gian lớn để cụ thể hóa các hình ảnh được đặc tả trong văn chương Nguyễn Du, làm cho di sản thơ văn Nguyễn Du vốn được biểu hiện bằng ngôn ngữ sẽ trở thành vật thể tạo hình có thể nhìn thấy, cảm thấy và nghe thấy được. Đặc biệt là ở đây sẽ tái tạo lại không gian văn hóa Truyện Kiều với các nhân vật và cảnh quan trong Truyện Kiều.
            Ngày 22/8/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã có Quyết định số 2450/UBND - VX phê duyệt quy hoạch chi tiết Khu văn hóa du lịch Nguyễn Du với tổng diện tích 339,75ha, thuộc phạm vi xã Tiên Điền và một phần diện tích thị trấn Nghi Xuân và xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân.
            Năm 2013, quy hoạch này có tên là Quy hoạch tổng thể bảo tồn tôn tạo Khu lưu niệm Nguyễn Du được phê duyệt theo Quyết định số 2542/QĐ-TTg ngày 20/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Tầm vóc của quy hoạch bấy giờ lớn hơn so với trước đây. Quy hoạch bao gồm 4 nhóm phân khu chức năng chính: Khu lưu niệm, quảng trường Tố Như, không gian thơ ca Nguyễn Du; không gian văn hóa truyền thống Tiên Điền, Nghi Xuân và Trung tâm diễn giải du lịch văn hóa lịch sử gắn với giá trị thơ ca và cuộc đời Đại thi hào Nguyễn Du; không gian Nguyễn Du; không gian phong cảnh tưởng niệm và mộ Đại thi hào Nguyễn Du. Ngoài các phân khu nói trên còn có 2 trung tâm: Trung tâm dịch vụ du lịch - điều hành và Trung tâm giới thiệu sản vật địa phương - nghề truyền thống.
Việc triển khai Quy hoạch tổng thể bảo tồn tôn tạo Khu lưu niệm Nguyễn Du sẽ làm cho những di sản văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều được bảo tồn và phát huy giá trị đúng tầm. Tuy nhiên vấn đề mà chúng ta quan tâm vẫn là một thập kỷ làm quy hoạch thì đến bao giờ quy hoạch đó trở thành hiện thực.
4. Trên thế gới có nhiều những điểm du lịch thu hút du khách là khu lưu niệm các thi hào, văn hào nổi tiếng. Tầm vóc của Nguyễn Du và Truyện Kiều đã sánh ngang nhiều đại diện văn học của thế giới, được nhiều người biết đến. Đặc biệt gần đây, ngay cả trong ngôn ngữ ngoại giao, Truyện Kiều cũng được đưa vào vận dụng. Vào tháng 11/2000, khi thực hiện chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam trên cương vị Tổng thống Mỹ, ông Bill Clinton đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp, gần gũi khi đọc hai câu Kiều khi đề cập chiều hướng phát triển của quan hệ hai nước: "Sen tàn cúc lại nở hoa / Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân". Và mới đây, ngày 7/7/2015, Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đã chủ trì buổi tiệc chiêu đãi trọng thể Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đọc 2 câu Kiều để diễn tả quan hệ Việt - Mỹ: “Trời còn để có hôm nay / Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”. Những điều đó cho thấy rằng di sản văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều có một tầm lan tỏa sâu sắc và rộng rãi, không chỉ ở Việt Nam mà cả thế giới. Chính vì vậy, khai thác di sản văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều để phát triển du lịch phải là một chiến lược của Hà Tĩnh. Tầm vóc của di sản văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều rất lớn, nếu khai thác đúng tài nguyên này, tin chắc sẽ tạo được một bước phát triển ngoạn mục của du lịch Hà Tĩnh./.
 TVS

Tài liệu tham khảo:
- Tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 250 năm ngày sinh và vinh danh danh nhân văn hóa thế giới Đại thi hào Nguyễn Du, Sở VHTT&DL Hà Tĩnh, tháng 7/2014.
- Các tài liệu do Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du, Ban quản lý Khu di tích Ngã Ba Đồng lộc, Ban quản lý xây dựng cơ bản Sở VHTT&DL Hà Tĩnh cung cấp.






ĐẠI HỘI HỘI KIỀU HỌC VIỆT NAM NHIỆM KỲ II (2017 - 2022)

Toàn cảnh Đại hội

Ngày 13/01/2017 Đại hội nhiệm kỳ II (2017 - 2022) Hội Kiều học Việt Nam đã được tổ chức long trọng tại Thủ đô Hà Nội.

Về dự Đại hội có 205 hội viên đại diện cho gần 600 Hội viên trong cả nước.
Đại hội vui mừng chào đón 45 khách mời đến dự và chia vui với Đại hội. Đặc biệt, mặc dầu rất bận, PGS,TS Nguyễn Thế Kỷ - Uỷ viên TW Đảng - Chủ tịch Hội đồng Lý luận và phê bình VHNT TW đã đến dự và phát biểu ý kiến.
Trong không gian trang trọng, ấm cúng tại Hội trường lớn Thư viện Quốc gia, với tinh thần làm việc trách nhiệm, đoàn kết, sáng tạo, nghiêm túc và khẩn trương Đại hội đã kết thúc thành công tốt đẹp.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết trong đó nhấn mạnh các nội dung chính sau:
I. Đánh giá hoạt động của Hội nhiệm kỳ I (2011-2016)
Đại hội nhất trí thông qua báo cáo tổng kết hoạt động của BCH nhiệm kì I do Giáo sư Phong Lê, Chủ tịch Hội khóa I trình bày. Đại hội ghi nhận những cố gắng của BCH nhiệm kỳ I:
1.Trong buổi đầu mới thành lập, phải tự lo, tự trang trải về ngân sách hoạt động nhưng Hội đã phối hợp với các địa phương tổ chức các hội thảo khoa học về Nguyễn Du và Truyện Kiều; thành lập và ra mắt các Văn phòng đại diện của Hội ở một số tỉnh như Bắc Ninh, Thái Bình, Nam Định, Hải Phòng, Nghệ An, Hà Tĩnh, TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai.
2. Hội đã xuất bản một số văn bản của Hội như văn bản Truyện Kiều, cuốn phim tư liệu “Trăm năm trong cõi Truyện Kiều” và một số văn bản; thuộc nhiều loại hình nghệ thuật khác. 
3. Đặc biệt Hội đã góp phần tích cực cùng với tỉnh Hà Tĩnh tổ chức thành công Đại lễ kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du năm 2015 và tổ chức long trọng ngày giỗ lần thứ 196 Đại thi hào vào 10 - tháng 9 năm 2016.
4. Đại hội chân thành cám ơn các Bộ, ngành Trung ương, các địa phương và các cá nhân trong thời gian qua đã nhiệt tình quan tâm, hỗ trợ về vật chất và tinh thần tạo điều kiện để Hội phát triển và trưởng thành.

Đoàn Chủ tịch và Thư ký Đại hội
II. Phương hướng hoạt động của Hội nhiệm kỳ II (2017 - 2022)
Nội dung trọng tâm là hướng tới lễ kỷ niệm 200 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Du (1820 - 2020). Để tổ chức thành công ngày kỷ niệm trên, cần tập trung vào những hoạt động chính sau đây:
1.Tiếp tục tiến hành phát huy những tiềm năng trong các hoạt động khai thác, sưu tầm, nghiên cứu, quảng bá về Nguyễn Du và Truyện Kiều; 
2. Biên soạn và cho xuất bản một số ấn phẩm, phim tư liệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều, các loại hình hoạt động văn hóa nghệ thuật khác và xây dựng trang Website của Hội.
3. Phát huy sáng kiến, để có những hoạt động nhằm thiết thực góp phần vào lễ kỷ niệm 200 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Du vào tháng 9 - 2020.
4. Phối hợp với tỉnh Hà Tĩnh, vận động các tập thể cá nhân nhiệt tình, tâm huyết tìm nguồn tài trợ xây dựng Quỹ Nguyễn Du nhằm trao thưởng cho những tập thể, cá nhân có thành tích trong truyền bá, nghiên cứu, giảng dạy và học tập về Nguyễn Du và Truyện Kiều.
5. Hội sẽ phối hợp với tỉnh Hà Tĩnh, thành phố Hà Nội xây bia và Nhà tưởng niệm Nguyễn Du tại Hà Nội.
6. Tiếp tục vận động kết nạp hội viên mới của Hội, vận động thành lập các chi hội ở những địa phương và thành lập thêm các VPĐD.
III. Kết quả bầu cử và Điều lệ Hội của nhiệm kỳ II (2017-2022) do Đại hội quyết định
1. Nhất trí thông qua hoạt động bầu cử BCH nhiệm kỳ II trên tinh thần công khai, dân chủ, đồng thuận. Đại hội đã bầu được 33 hội viên đảm bảo tiêu chuẩn tham gia BCH hội, và Ban kiểm tra Hội gồm 03 người.
2. Đại hội nhất trí thông qua Điều lệ Hội nhiệm kỳ II với 8 Chương, 26 Điều như đã được thảo luận nhất trí tại Đại hội.
Đại hội giao cho BCH nhiệm kỳ II chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Đại hội đã được thông qua.
Phát huy những bài học thành công của nhiệm kỳ I, Đại hội nhiệm kỳ II Hội Kiều học Việt Nam tin tưởng và phấn khởi bước vào nhiệm kỳ mới với nhiều hoạt động sôi nổi, phong phú hơn nhằm quảng bá cho nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế tầm vĩ đại của Danh nhân văn hóa thế giới, Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du và tác phẩm bất hủ: Truyện Kiều.

Phát biểu của Đoàn Hà Tĩnh tại Đại hội

Buổi chiều cùng ngày Ban Chấp hành nhiệm kỳ II (2017 - 2022) đã tổ chức phiên họp thứ nhất để bầu các chức danh và với 100% phiếu bầu, tập thể đã nhất trí bầu:
A. Chủ tịch Hội: GS. Phong Lê
B. Các Phó Chủ tịch: 
1. Ông Võ Hồng Hải
2. Ông Nguyễn Khắc Bảo 
3. Ông Hoàng Xuân Khoá
4. Ông Phùng Văn Tính
C. Ban Thường vụ (ngoài Chủ tịch, các PCT):
1. Ông Bùi Xuân Thập
2. Bà Kiều Thuý Nga
3. Ông Bùi Thiết
4. Ông Vũ Ngọc Khôi
5. Ông Nguyễn Hữu Sơn
6. Ông Lê Đức Hân
D. Theo đề nghị của Chủ tịch Hội về việc thành lập Ban cố vấn, Ban Chấp hành đã nhất trí bầu 5 vị:
1. GS.NGND Nguyễn Đình Chú
2. GS.NGND Trần Đình Sử
3. Nhà thơ Vũ Quần Phương
4. Nhà thơ Vương Trọng
5. Bác sĩ Nguyễn Xuân Lam
Đại hội đã giao cho BCH nhiệm kỳ II (2017-2022) tổ chức thực hiện thành công phương hướng nhiệm vụ mà Đại hội đã đề ra.
Ban Chấp hành Hội Kiều học Việt Nam trân trọng cảm ơn UBND tỉnh Hà Tĩnh, UBND tỉnh Bắc Ninh, Thư viện Quốc gia Việt Nam, TS Phạm Tuần, nhà giáo Lê Đức Hân và các tổ chức, cá nhân khác đã ủng hộ vật chất và tinh thần góp phần vào sự thành công của Đại hội.
Ban Chấp hành Hội Kiều học Việt Nam đánh giá cao và ghi công các đồng chí trong Ban tổ chức Đại hội, đã tận tâm tận ý đóng góp lớn vào sự thành công của Đại hội.
Ban Chấp hành ghi nhận sự đóng góp lớn của các thành viên trong Ban vận động thành lập Hội Kiều học Việt Nam, các đồng chí trong BCH nhiệm kỳ I và toàn thể hội viên Hội Kiều học Việt Nam, các bạn yêu mến Nguyễn Du và Truyện Kiều trong nước và nước ngoài đã đồng hành, đóng góp trong một mái nhà chung - Hội Kiều học Việt Nam, cổ vũ cho sự thành công của Đại hội và sự phát triển trong nhiệm kỳ II của Hội.

DANH SÁCH HỘI VIÊN HỘI KIỀU HỌC VIỆT NAM TẠI HÀ TĨN

Đoàn Hà Tĩnh chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo
1.Hà Văn Thạch Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tĩnh
2.Đặng Quốc Vinh PCT UBND tỉnh Hà Tĩnh
3.Võ Hồng Hải Phó Chủ tịch HĐND tỉnh
4.Bùi Xuân Thập Giám đốc Sở VHTT&DL
5.Thái Văn Sinh TBT Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh
Trưởng Văn phòng đại diện Hội Kiều học Hà Tĩnh
6.Nguyễn Ban Phó trưởng Văn phòng đại diện Hội Kiều học
Hà Tĩnh
7.Nguyễn Tùng Lĩnh Trưởng phòng QLDS Phó trưởng Văn phòng đại diện Hội Kiều học Hà Tĩnh
8.Nguyễn Ngọc Thịnh GĐ Nhà hát NTTT Hà Tĩnh
9.Nguyễn Xuân Thiều PCT Thường trực LH các Hội KH và KTHT
10.Thái Sơn Trưởng Ban Thông tin, Liên hiệp các Hội KH và KTHT
11.Lê Thị Loan PGĐ Sở VHTTT& DL Hà Tĩnh
12.Nguyễn Xuân Hải Chủ tịch Hội Nhà báo Hà Tĩnh
13.Bùi Thị Lan Giáo viên Nghỉ hưu
14.Nguyễn Thị Nga Chuyên viên Phòng xây dựng nếp sống VH và GĐ
15.Võ Thị Nhân Văn Trung tâm quảng bá, xúc tiến VH và Du lịch Hà Tĩnh
16.Hồ Hữu Phước Nhà giáo nghỉ hưu
17.Mai Quốc Quyền GĐ Trung tâm Văn hóa – Điện ảnh HT
18.Thái Kim Đỉnh Cán bộ nghiên cứu Văn hóa nghỉ hưu
19.Lê Trần Sửu Cán bộ nghỉ hưu
20.Trần Ninh (Hà Quảng) Cán bộ nghỉ hưu
21.Lê Văn Tùng Cán bộ nghỉ hưu
22.Phan Thư Hiền Chủ tịch Chi Hội Di sản VHHT
23.Nguyễn Thị Ái Vân Phó Chánh VP
24.Trần Đình Hưng Chuyên viên
25.Võ Đình Thi Phó Trưởng phòng Quản lý Di sản VH, Sở VHTT&DL HT
26.Nguyễn Thị Thúy GĐ Thư viện tỉnh
27.Nguyễn Như Thuyết PGĐ Thư viện tỉnh
28.Phạm Thị Nhàn CB thư viện
29.Nguyễn Thị Chinh CB thư viện
30 Lê Anh Tuấn Hội viên hội Mỹ thuật Việt Nam
31.Phan Trung Thành PGĐ Đài PTTH Hà Tĩnh
32.Trương Ngọc Ánh Biên tập viên
33.Trần Thị Phương Hoa, Phó Giám đốc Đài PTTH Hà Tĩnh
34.Bùi Minh Huệ Phó TBT Báo Hà Tĩnh
35.Hoàng Trung Thông Tổng thư ký Hội doanh nghiệp Hà Tĩnh
36. Trần Nguyên Phú Giám đốc Bệnh viện Tp Hà Tĩnh
37.Trần Đức Cường Thư ký tòa soạn Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh
38.Nguyễn Hải Nam Chủ tịch UBND huyện Nghi Xuân
39.Võ Giáp PCT Hội Thơ đường luật Việt Nam
40.Hồ Thị Xuân Hồng Ct Hội NNCĐDC huyện Nghi Xuân
41.Đặng Thị Hảo CV Phòng GD-ĐT
42.Hồ Thị Hoa Hiệu trưởng trường THCS Phổ Hải, NX
43.Nguyễn Thị Duyên Giáo viên THPT Nguyễn Du, Nghi Xuân
44.Trần Thị Hồng Vỵ GV THPT nghỉ hưu
45.Nguyễn Thị Hà CV Phòng GD&ĐT Cẩm Xuyên
46.Hồ Việt Anh Hiệu trưởng
47.Hồ Thanh Chung Trưởng khoa Văn hóa – Du lịch
48.Trần Đăng Kiên Trưởng phòng Khảo thí và KĐCL
49.Nguyễn Văn Dương Trưởng khoa Mỹ thuật
50.Nguyễn Thị Tú Trang Chuyên viên phòng NCKH&HTQT
51.Huỳnh Thị Nha Trang Giảng viên khoa Mỹ thuật
52.Hà Chu Lệ CVP HĐND-UBND huyện Nghi Xuân
53.Nguyễn Trung Tuyến GV Văn Trường THPT Thị xã Kỳ Anh
54.Nguyễn Thị Thu Hiền GV Văn Trường THPT Hương Sơn
55.Mã Bảo Hà Tổ trưởng Tổ Văn Trường THPT Hương Sơn
56.Nguyễn Văn Minh Phó Trưởng phòng GDTX Sở GD&ĐT
57.Đinh Thị Lan Hương Phó TP GD-ĐT Nghi Xuân
58.Trương Hòa Bình Tổ trưởng Tổ Văn Trường THPT Phan Đình Phùng
59.Trần Hành Sơn Hiệu trưởng THCS Xuân An, NX
60.Trần Quốc Thường Hiệu trưởng Trường THCS Nguyễn Biểu, Đức Thọ, Hà Tĩnh
61.Hồ Minh Thông GV Văn THCS Lê Văn Thiêm TP Hà Tĩnh
62.Dư Lý Trí Phó Chánh Văn phòng Sở GD&ĐT
63.Ngô Sỹ Ngọ Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam




RA MẮT VĂN PHÒNG ĐẠI DIỆN HỘI KIỀU HỌC VIỆT NAM TẠI HÀ TĨNH

Chụp ảnh lưu niệm tại Hội thảo "Nguyễn Du - Truyện Kiều với quê hương Hà Tĩnh

 Chiều 9/9/2016, Sở VHTT&DL Hà Tĩnh phối hợp với Hội Kiều học Việt Nam tổ chức lễ ra mắt văn phòng Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh. Đồng chí Đặng Quốc Vinh, Phó chủ tịch UBND tỉnh, GS Phong Lê- Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam cùng đại diện lãnh đạo các sở, ban ngành và 83 hội viên hội Kiều học Hà Tĩnh đã đến dự

Hội Kiều học Việt Nam được thành lập từ năm 2011, nhằm mục đích nghiên cứu và công bố các giá trị, tinh hoa văn học nghệ thuật và văn hóa xã hội kết tinh trong truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du qua đó tôn vinh, phát huy và bảo vệ di sản văn hóa quý giá bậc nhất của dân tộc. Hội có trách nhiệm phổ cập rộng rãi trong công chúng những hiểu biết về Truyện Kiều của các nhà nghiên cứu để công chúng nâng cao độ cảm thụ cái hay, cái đẹp, cái tinh túy của Truyện Kiều. Việc thành lập Hội Kiều học Việt Nam tại quê hương của Đại thi hào, càng nhiều ý nghĩa, góp phần tuyên truyền, quảng bá Truyện Kiều .
Tại buổi lễ đại diện Hội Kiều học Việt Nam đã công bố, trao các quyết định thành lập và bổ nhiệm ông Thái Văn Sinh, Tổng biên tập tạp chí văn hoá Hà Tĩnh là trưởng văn phòng đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh.

Ảnh: TĐC

THƯ NGỎ

Kính thưa quý vị!      Nguyễn Du (1765-1820) là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông ...