SUY NGHĨ VỀ CÂU THƠ “THÚC SINH QUEN THÓI BỐC RỜI, TRĂM NGHÌN ĐỔ MỘT TRẬN CƯỜI NHƯ KHÔNG!

LTS: Nhân Kỷ niệm 197 năm này mất Đại thi hào Nguyễn Du (10-8 Đinh Dậu) và 13 năm ngày doanh nhân Việt Nam 13-10, Hội Kiều học Việt Nam đã phối hợp với Công ty Hanvico tổ chức Hội thảo “Doanh nhân với Truyện Kiều và Truyện Kiều với doanh nhân”.
Tham dự Hội thảo có các Giáo sư: Phong Lê, Nguyễn Đình Chú, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, và trên 100 đại biểu gồm các nhà nghiên cứu, các nhà thơ, các doanh nhân trong khắp cả nước. Hội thảo đã diễn ra sôi nổi và đầy thú vị về việc vận dụng linh hoạt và thiết thực các giá trị Truyện Kiều vào quá trình xây dựng và phát triển doanh nghiệp cũng như xây dựng văn hóa doanh nhân, doanh nghiệp. Hơn 30 tham luận đã được gửi đến Hội thảo. https://hoikieuhochatinh.blogspot.com sẽ lần lượt giới thiệu các tham luận để bạn đọc xa gần tham khảo.

TS Nguyễn Thế Kỷ, UVTW Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, Phê bình VNNT Trung ương, phát biểu tại Hội thảo.
                                                                                                                                                                   Ảnh TVS
                                   Tham luận của Nhà nghiên cứu, dịch giả Lê Đăng Hoan  
       
Thúc sinh là nhân vật được nhiều người khen chê, nhất là qua hành vi “ Trăm ngàn đổ một trận cười như không” của anh ta.
Xét cho cùng đó là một hành vi rất nhân văn. Tôi không nói nhân văn như một nhà Kiều học nói, là để cứu Kiều, có lẽ việc cứu Kiều không xuất phát từ tính nhân văn của Thúc Sinh, mà đó là cứu Kiều về làm vợ.
Nhân văn ở chỗ nó rất con người. Một con người có ham muốn, biết giá trị nào để sử dụng đồng tiền vào đâu cho đúng.
Tôi không bênh vực những đại gia bây giờ, một đêm cùng chân dài có thể chi hàng chục nghìn đô, hay vì một hợp đồng quái quỷ với môt người đẹp mà chi đến hàng chục tỷ đồng. Nhưng tất cả đều có lý của nó.   
Hồi tôi làm việc với một giám đốc người nước ngoài, một hôm đã khuya, ông gọi điện cho tôi hỏi “Công nhân không đồng ý mức lương 36USĐ/tháng, tôi định tăng lên 36 đô rưỡi được không?”(Hồi ấy lương tối thiểu của công nhân trong doanh nghiệp nước ngoài chỉ 35USĐ/tháng ). Tôi nói rằng “Tăng gì mà keo kiệt thế, tăng lên 40 USD/tháng đi”, ông ta dứt khoát không đồng ý, chỉ tăng thế thôi.
Rồi một hôm đi hát Karaoke với ông ta, ngồi bên một cô gái khoảng 1 giờ, lúc về ông ta “bo” cho cô ta 100USD. Tôi ngạc nhiên hỏi “ Sao lại thế, một tiếng đồng hồ, vừa được ăn, uống hát hò, ngồi không làm gì, ông lại cho nhiều thế, mà lương công nhân thì ông kẹt xỉ mấy xu lẻ?”. Ông cười nhìn tôi trả lời rất hóm hỉnh “ Con người mà ông? Sự đời là thế, cô ta xứng được thưởng như thế”.
Như vậy ở đây có hai vấn đề cần được làm rõ:
1/ Những người làm ra tiền, họ có quyền được hưởng thụ văn hóa mà họ ưa thích và họ không cò kè về sự hào phóng, đó là sự hào phóng tự nguyện,
2/ Thế thì tại sao họ lại so đo, như là keo kiệt khi trả công cho người lao động, hay cò kè từng đồng khi giao dịch buôn bán, có phải trình độ văn hóa của họ kém hay không?  
Ở đây có lẽ nên lí giải vấn đề bằng cách nhìn về hưởng thụ văn hóa.
Văn hóa là “Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.  Thưởng thức văn hóa nghệ thuật là một nhu cầu thiết yếu của con người. Cuộc sống vật chất, kinh tế càng phát triển thì nhu cầu hưởng thụ văn hóa càng cao.
Ông Hà Văn Thạch, UVBTV, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tĩnh và các Giáo sư:Nguyễn Đình Chú, Trần Đình Sử, nhà thư pháp Thế Anh chụp ảnh lưu niệm với các đại biểu.
                                                                                                                                        Ảnh: TĐT

  Trong thưởng thức văn hóa nghệ thuật thì sắc đẹp là một nội dung không thể thiếu, nếu không nói là nội dung chính của thưởng thức văn hóa nghệ thuật. Thế thì, con người sinh ra, có quyền được thưởng thức những cái đó. Trong tất cả cái đẹp, cái đẹp của con người, của người phụ nữ, mà tạo hóa ban tặng cho họ là đáng để con người chiêm ngưỡng và hâm mộ nhất. Trong các hoạt động của con người thì hoạt động tình dục là hoạt động có ý nghĩa nhất và có tính văn hóa, nhân văn cao nhất.
Thế thì để hưởng thụ được cái hạnh phúc nhất đó, ai lại đi “cò kè”.
(“Cò kè” trong tuyện Kiều, được nói nhiều nhất khi Mã Giàm Sinh mua Kiều. Bao nhiêu lời phê bình cho hành động “Cò kè bớt một thêm hai” của Mã Giám Sinh là vô nhân đạo. Nhưng thực ra “cò kè” đâu phải chỉ có Mã Giám Sinh, vì anh ta cũng chỉ là người đi buôn. Ta có thể phê phán hành động buôn người là vô nhân đạo, nhưng không thể phê phán sự “cò kè” của người đi buôn bán được. Thử hỏi trong tất cả chúng ta, kể từ những doanh nghiệp to, đến các tiểu thương buốn bán nhỏ, khi mua khi bán một vật phẩm nào đó, có ai không “cò kè”!. Thế thì “cò kè” là hiện tượng phổ biến của thương nghiệp. Trong một xã hội mà việc buôn người không bị cấm, thì việc “cò kè” khi mua người cũng là một việc hết sức bình thường.)
Trong cả đoạn nói về quan hệ qua lại của Thúc Sinh và nàng Kiều, không hề có chữ “cò kè”, nói bao nhiêu trả bấy nhiêu, nên mới bị lên án là “bốc rời”. Nhưng cái “bốc rời” của Thúc Sinh là “có lí”. Một nàng Kiều xinh đẹp như thế, “trong ngọc trắng ngà…”như “tòa thiên nhiên”, rồi những cuộc giao hoan “miêt mài” như thế, rồi cái tài, cái thông minh, biện luận tuyệt vời đầy trí tuệ khi Thúc Sinh muốn lấy nàng làm vợ, thì ai lại đi “cò kè” khi được thưởng thức, hay được gần gũi với giá trị văn hóa đỉnh cao, đáng trân trọng như thế.
Cho nên khi có tiền (ngoại trừ đồng tiền bất chính), người ta có quyền được hưởng những gì đẹp nhất do trời ban tặng mà họ không phải đắn đo đắt rẻ.
Vậy thì những đại gia và các nữ chân dài hiện đại, họ có đáng phải chịu sự ghen ghét của xã hội hay không, nếu sự có đi có lại đó được hiểu là một sự hưởng thụ chân chính bằng sức lao động chân chính, bằng sự trao gửi chân tình.
Với cách nhìn ấy, thì “ Trăm nghìn đổ một trận cười..” có lẽ còn rẻ hơn các khách làng chơi đại gia hiện đại!
Còn câu hỏi thứ hai, vấn đề công lao động và lương bổng, việc buôn bán vật phẩm hàng ngày lại là một lĩnh vực hoàn toàn khác.
Tôi không tin rằng trong cái “ ngôi hàng Lâm Tri” của Thúc Sinh, anh ta cũng “bốc rời”. Có lẽ hoàn toàn không. Nếu bốc rời cả trong công việc buôn bán thì tiền đâu mà “bốc rời” nơi hưởng thụ.
Cho nên ở đó anh ta cũng “cò kè”, mà có khi phải “giả dối” đôi chút, vì dù sao cũng là con buôn.
Tôi không biết có doanh nghiệp nào đang ngồi ở đây, hoàn toàn nói thật khi buôn bán, trao đổi hàng hóa hay không? Tôi không tin là không có, nhưng hiếm lắm.
Tôi có dịch một bài thơ của nhà thơ nổi tiếng Hàn Quốc, Ko Un,  nói về những “kẻ keo kiệt bậc nhất” đã làm nên nền thương ngiệp Hàn Quốc. Đó là anh chàng đi bán nước tiểu thì cho thêm nước lã, còn người đi mua nước tiểu thì trước khi mua hàng còn lấy ngón tay chấm vào nước tiểu rồi mút thử xem có lẫn nước lã vào hay không.
Sau khi nói rằng đó là “những kẻ keo kiết nhất”, đồng thời tác giả cũng khẳng định họ chính là những người mở đầu cho nền thương nghiệp Triều Tiên lúc bấy giờ.
Sự thật của thương nghiệp là thế! Ngoại trừ những kẻ vô lương tâm đem chất độc, sản xuất chất giả trong buôn bán làm hại cuộc sống con người và rối loạn xã hội.
Còn khi người ta sản xuất sản phẩm thì đồng lương là phần quan trọng trong giá thành sản phẩm, quyết định lời lỗ của sản xuất, cho nên phải “cò kè” là vì thế. Trong buôn bán không biết các nhà buôn có bao giờ nói đúng giá mua vào, chi phí giá thành một sản phẩm hay không. Nếu có thì số liệu đó có một chút sai số (mà nhà quản lý hoặc người mua có thể chấp nhận được!) nào không!, vì đó là số liệu trực tiếp liên quan đến thuế má, lời lỗ. Đó mới là nhà buôn, thương nghiệp. Điều này đòi hỏi các nhà quản lí phải nhạy bén và sát thực tiễn cuộc sống.
Thúc Sinh là một nhà buôn, lại lấy được con một nhà “họ Hoạn danh gia”, để không phải mang tiếng ăn bám nhà vợ, đã đi xa tận Lâm Tri để mở cửa hàng buôn bán, thì không thể nói anh ta không biết gì về những nghề lẻ của thương nhân.
Nói tóm lại, trong câu thơ “ Thức Sinh quen thói bố rời,
                                          Trăm nghìn đổ một trân cười như không”
Nguyễn Du không có ý phê phán cái anh chàng Thúc Sinh kia, vì hơn ai hết Nguyễn Du biết rằng vì một nụ cười của phụ nữ mà vua còn mất nước nữa là chỉ mấy đồng tiền, nhưng ông muốn đi sâu vào cái lòng tham lam của Tú Bà, lợi dụng tính “bốc rời “ ấy của Thúc Sinh mà trục lợi.
Trong xã hội hiện nay, biết bao hiện tượng, hành động tốt bị lợi dụng. Kinh tế thị trường cho chúng ta bài học rằng:
    Có tài mà cậy chi tài,
 Chữ tài liền với chữ tai một vần.
    Đã mang lấy nghiệp vào thân,
 Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
    Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
 Mong các doanh nghiệp Việt Nam biết nắm lấy cơ hội để đầu tư đúng mục đích, biết sử dụng đồng tiền đúng theo giá trị của chính nó, để khi “bốc rời” cũng có lý, khi “cò kè” cũng không bị coi là keo kiết.
L.Đ.H

DÂNG HƯƠNG TƯỞNG NIỆM 197 NĂM NGÀY MẤT ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU VÀ PHÁT THẺ HỘI VIÊN HỘI KIỀU HỌC VIỆT NAM

        
Lễ trao thẻ Hội viên. Ảnh TĐC
          Sáng 29/9/2017 (10/8 Đinh Dậu), trong không gian văn hóa của Di tích cấp quốc gia đặc biệt, Khu lưu niệm Danh nhân văn hóa Thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du, Chi hội Hội kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh đã tổ chức Lễ dâng hương tưởng  niệm 197 năm ngày mất đại thi hào Nguyễn du và Trao thẻ Hội viên.
          Đến dự buổi lễ có các đồng chí chí Hà Văn Thạch, UVBTV, Trưởng ban tổ chức tỉnh ủy; Đặng Quốc Vinh, UVBTV, Phó Chủ tịch UBND tỉnh; Võ Hồng Hải, TUV, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh, Phó Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam; Bùi Xuân Thập, TUV, Giám đốc Sở VHTT&DL, Ủy viên Ban thường vụ Hội Kiều học Việt Nam, lãnh đạo Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, đại diện dòng họ Nguyễn Tiên Điền và gần 60 hội viên Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh
Hội viên Hội Kiều học Hà Tĩnh dâng hương tại Khu mộ Đại thi hào Nguyễn Du sáng 29/9/2017. Ảnh TĐC
          Sau lễ dâng hương tưởng niệm lần thứ 197 ngày mất Danh nhân văn hóa Thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du tại Khu mộ và Nhà thờ, là Lễ trao nhận phiên bản mộc bản về Đại thi hào Nguyễn Du trong kho tàng Mộc bản triều Nguyễn của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước cho ngành Văn hóa Hà Tĩnh. Tiếp đó là Lễ phát thẻ Hội viên Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh và sinh hoạt hội năm 2017.
Ông Đặng Quốc Vinh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh phát biểu tại buổi lễ. Ảnh TVS
          Tại buổi lễ, ông Thái Văn Sinh, Trưởng Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh đã báo cáo kết quả hoạt động của Ban chấp hành Hội Kiều học Việt Nam sau Đại hội II và hoạt động của Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh sau một năm ra mắt và chương trình hoạt động thời gian tới.
Ngày 03/11/2011, Hội Kiều học Việt Nam tiến hành Đại hội thành lập – hay còn gọi là đại hội lần thứ nhất sau hơn 3 năm tiến hành vận động với 180 hội viên  (trên tổng số gần 400 hội viên trong toàn quốc  và 40 khách mời tham dự. Ngày 13/01/2017  Đại hội nhiệm kỳ II (2017 - 2022) Hội Kiều học Việt Nam đã được tổ chức Đại hội có 205 hội viên trên tổng số  600 Hội viên trong cả nước và  45 khách mời tham dự. Đoàn Hà Tĩnh có 20 hội viên tham dự. Đại hội bầu GS. Phong Lê làm Chủ tịch. Ban chấp hành Hội có 33 ủy viên, trong đó Hà Tĩnh có 3 ủy viên. gồm: Ông Võ Hồng Hải, Ông Bùi Xuân Thập và Ông Thái Văn Sinh. Trong 4 phó chủ tịch: Hà Tĩnh có 1 PCT là ông Võ Hồng Hải. Trong  11 ủy viên thường vụ thì Hà Tĩnh có 2: Ông Võ Hồng Hải, Ông Bùi Xuân Thập. Đại hội nhất trí thông qua Điều lệ Hội nhiệm kỳ II với 8 Chương, 26 Điều với tiêu chí: tuyên truyền, quảng bá, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản của Nguyễn Du và Truyện Kiều. Hội có 1 Tạp chí có tên là “Trăm năm trong cõi Truyện Kiều” và 1 Website có tên miền http://kieuhoc.com/.
Trưởng, phó Văn phòng đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh chụp ảnh lưu niệm với lãnh đạo Hội Kiều học Việt Nam và lãnh đạo tỉnh. Ảnh: TĐC
Văn phòng Đại diện hội kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh dươc thành lập ngày 01 tháng 6 năm 2013 theo Quyết định số 91/QĐ – HKHVN của Chủ tịch Điều lệ Hội Kiều học Việt Nam có 16 hội viên do ông Phạm Quang Ái làm Trưởng Văn phòng.
Sau 3 năm hoạt động, tháng 8/2016 Hội kiều học Việt Nam bổ nhiệm nhân sự mới gồm: Ông Thái Văn Sinh, TBT Tạp Văn hóa Hà Tĩnh làm Trưởng Văn phòng; Ông Nguyễn Ban, Chi hội trưởng Chi hội Văn học Nghệ thuật huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Phó Trưởng Văn phòng; Ông Nguyễn Tùng Lĩnh, Trưởng phòng Di sản Sở VHTTDL Hà Tĩnh làm Phó Trưởng Văn phòng. Ngày 9/9/2016, Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh tổ chức ra mắt sau 3 năm thành lập
          Sau 1 năm khi kiện toàn Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh tổ chức ra mắt đã tổ chức được 5 hoạt động lớn:
1. Về phát triền hội viên: từ 16 hội viên đã phát triển lên 63 hội viên và xây dựng được hồ sơ hội viên và làm thẻ cho hội viên.
2. Chuẩn bị nội dung, kế hoạch và tham gia tổ chức giỗ lần thứ 196 năm Đại thi hào Nguyễn Du vào 10/8 năm Bính Thân 2016.
3. Tham gia chuẩn bị Đại hội II gồm tài liệu và vận đông tài chính.
4. Xuất bản tập sách “Nguyễn Du Truyện Kiều với quê hương Hà Tĩnh”
5. Tổ chức Lễ dâng hương tưởng  niệm 197 năm ngày mất đại thi hào Nguyễn du và Trao thẻ Hội viên.
Từ nay đến 2018, Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh sẽ triển khai 6 đầu việc việc chính như sau:
1. Phát triển hội viên và tổ chức các phân chi hội viên theo khu vực.
2.Tổ chức sinh hoạt 3 tháng 1 lần
3.Xây dựng quỹ Kiều học Hà Tĩnh
4.Xuất bản 01 cuốn sách về kiều học
5.Làm Website  Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh
6.Tổ chức 01 chuyến dã ngoại cho Hội viên thăm những nơi Nguyễn Du từng sống và làm việc ở Huế và Quảng Bình./.





"CUNG ĐÀN THÚY KIỀU", MỘT CA KHÚC ĐẶC SẮC



LTS: Một ca khúc kết hợp nhuần nhuyễn hơi thở của ca trù cổ xưa và phong cách đương đại, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đời thường và sân khấu âm nhạc, giữa ca sĩ và nhạc sĩ . Theo Triết học thì đó là "sự thống nhất của 2 mặt đối lập" hay nói cách khác là sự kết hợp nhuần nhuyễn 2 mặt đối lập. Xin trân trong giới thiệu với độc giả nhạc phẩm này của Ngọc Thịnh ( Bản MP3).


DOANH NHÂN VỚI TRUYỆN KIỀU Và TRUYỆN KIỀU VỚI DOANH NHÂN, MỘT HỘI THẢO ĐÁNG QUAN TÂM


 Để  kỷ niệm 197 năm ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du (10/8 Đinh Dậu) và tiến tới kỷ niệm ngày doanh nhân Việt Nam 13-10, Hội Kiều học Việt Nam phối hợp với Công ty HANVICO tổ chức hội thảo này.
             > Thành phần:
- Các doanh nhân trong và ngoài nước.
- Các nhà nghiên cứu văn hóa trong cả nước.

            > Khách mời:

- Ban Tuyên giáo Trung ương và Hà Nội
- Lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh
- Đài Truyền hình Việt Nam
- Đài Tiếng nói Việt Nam
- Đại diện một số doanh nghiệp và tổ chức liên quan.

            >Thời gian: Thứ 7 váo 8 giờ ngày 30/9/2017.
> Địa điểm: Hội trường tầng 2, NXB Tài nguyên - môi trường và Bản đồ Việt Nam, số 85 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội.
> Đơn vị tổ chức:        Hội Kiều học Việt Nam và Tổng Công ty Hanvico.
                                      Đồng chủ trì: GS Phong Lê và TS. Phạm Văn Tuần.

HẢI ĐƯỜNG LẢ NGỌN ĐÔNG LÂN


Hoa Hải Đường

                                                                                                                             Vĩnh Sinh
Ở miền Bắc và miền Trung có một loài hoa đẹp nở vào đầu xuân, thân và cành cây cứng cáp, cao vừa phải; hoa năm cánh màu trắng, đỏ thắm hay hồng tươi; nhụy hoa màuvàng đậm nhưng không có hương thơm. Dân gian quen gọi loài hoa này là hoa “hải đường”. Trong Từ điển tiếng Việt (1997), cây “hải đường” được định nghĩa là “Cây nhỡ cùng họ với chè, là dày có răng cưa, hoa màu đỏ trông làm cảnh”. Từ điển Việt-Anh và Việt-Pháp thường dịch “hải đường” là camellia/ camélia.
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã nhắc đến hoa hải đường hai lần nhằm gợi đến nàng Kiều:
Hải đường lả ngọn đông lân,
Giọt sương gieo nặng cành xuân la đà 1.
(Hàng 175-178)
Hải đường mơn mởn cành tơ,
Ngày xuân càng gió càng mưa càng nồng
(hàng 1283 – 1284)
Sự cách biệt giữa một cây mang tên là “hải đường” có thân và cành cây cứng cáp mà tôi hằng thấy trong những khu vườn cổ ở Huế, với ấn tượng về một cây hải đường mảnh khảnh như đã được miêu tả qua những vần thơ trên đã khién tôi thắc mắc trong một thời gian khá lâu. Không lẽ Tiên Điền tiên sinh lại miêu tả cây hải đường thiếu chính xác đến thế? Niềm hoài nghi đó được giải tỏa khi chúng tôi tình cờ được thấy tận mắt cây hải đường đúng như tiên sinh đã miêu họa trong Kiều.
Một sáng mùa xuân cách đây đã có hơn 40 năm (ngày đó tôi còn là một du học sinh ở Nhật), khi đang đi bách bộ quanh khu cư xá du học sinh ở một vùng khá yên tĩnh tại Đông kinh, tôi chợt thấy một cây hoa mảnh khảnh, cành trĩu hoa màu hồng tươi. Loài hoa này tôi chưa bao giờ thấy ở Việt Nam. Nhân có người đi qua, tôi hỏi hoa ấy tên gì. Ông ta bảo : “Kaidô desu yo” (Hải đường đấy mà!). KHông hiểu linh tính nào đó đã cho tôi biết Kaidô địch thị là loài hoa hải đường “lả ngọn đông lân”mà Nguyễn Du đã nhắc đến trong Kiều! Cho đến bây giờ khi ngồi viết những dòng này, tôi vẫn chưa quên được cảm giác khoan khoái nhẹ nhàng lúc đó khi vừa vỡ lẽ một điều thắc mắc đã ám ảnh tôi khá lâu.
Đại từ điển tiếng Nhật Nihongo daijiten định nghĩa cây hải đường ở Trung Quốc (haitang) và ở Nhật (kaidô) như sau:
“Cây nhỡ rụng lá, thuộc họ tường vi (rose) trồng làm cây kiểng trong vườn. Hoa nở vào tháng 4 dươnglịch, sắc hồng nhạt. Loại có trái giống như quả táo tây, có thể ăn được. Cao từ 2 đến 4 mét”. Cuốn từ điển này còn chua thêm là hoa hải đường dùng để ví với người con gái đẹp, đặc biệt khi muốn nói lên nét gợi cảm hay vẻ xuân tình. Theo “Dương Quý Phi truyện” trong Đường thư, một hôm Đường Minh Hoàng ghé thăm Dương Quý Phi, nghe nàng còn chưa tỉnh giấc, nhà vua bảo: “Hải đường thụy vị túc da?”, nghĩa là “Hải đường ngủ chưa đủ sao?”. Trong văn học cổ Trung Quốc, cành hoa hải đường trong cơn mưa thường dùng để ví với dáng vẻ người con gái đẹp mang tâm trạng u sầu. Tên khoa học của cây hải đường là Malus spectabillis; tiếng Anh gọi là flowering cherry-apple (hay Chinese flowering apple, Japanese flowering crab-apple và nhiều tên khác nữa), tiếng Pháp gọi là Pommier sauvage.
Như vậy tên tiếng Việt của cây camellia/camélia mà từ trước đến nay ta thường gọi lầm là “hải đường”đúng ra phải gọi là gì? Có người gọi camellia/camélia là hoa trà, hay trà hoa. Chẳng hạn, tiểu thuyết La Dame aux camélias của Alexandre Dumas (Dumas fils) trước đây có người dịch là “Trà hoa nữ” hay “Trà hoa nữ sử” và Từ điển Việt Anh của soạn giả Bùi Phụng cũng dịch “trà hoa” là camellia. Tuy dịch camellia là trà hoa (hay hoa trà) nghe có lý hơn là “hải đường”, nhưng theo thiển ý cũng chưa được ổn cho lắm vì hoa trà chỉ có màu trắng mà còn có màu hồng và màu đỏ. Ta thử xem người Nhật và người Trung Quốc gọi camellia/camélia là gì. Tiếng Nhât gọi cây này là Tsubaki, chữ Hán viết là “xuân”, gồm chữ bộ “mộc”bên trái và chữ “xuân”là mùa xuân bên phải. Chữ “xuân”dùng trong nghĩa này nghe quá lạ tai đối với người Việt. Người Trung Quốc gọi camellia/camélia là shancha (sơn trà), sơn trà nghe cũng thuận tai và khá sát sao vì cây này cùng họ với cây chè (trà) và sơn trà nên hiểu là cây “trà dại”hay một biến thể của cây trà.
Đang phân vân chưa biết dùng từ nào trong tiếng Việt để dịch camellia/camélia cho thật sát nghĩa, chúng tôi lướt xem Truyện Kiều một lần nữa. Nào ngờ lời giải cho điều thắc mắc của chúng tôi đã có sẵn ngay trongđó: cụ Nguyễn Du trong tác phẩm bất hủ của mình cũng đã dùng hoa “trà mi”nhằm ám chỉ nàng Kiều, và trà mi chính là từ tiếng Việt tương ứng với camellia/camélia:
Tiếc thay một đóa trà mi
Con ong đã tỏ đường đi lối về
(hàng 845-846)
Hoặc:
Chim hôm thoi thót về rừng,
Đóa trà mi đã ngậm gương nửa vành.
(hàng 1091-1092)
Nhưng do đâu chúng ta có thể khẳng định như thế? Việt Nam từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức giải thích về hoa “trà mi”như sau: “thứ cây, có hoa đẹp, sắc đỏ, hoặc trằng mà không thơm”. Trà mi cùng họ với cây chè, có sắc đỏ hoặc trăng, và không có hương thơm – đó chính là những đặc điểm của cây camellia/camélia mà chúng ta đã đề cập ngay ở đầu bài.
Một điều thú vị và rất đáng chú ý: “trà mi”là một tên gọi thuần Nôm, không có trong chữ Hán! Nói môt cách khác,thay vì gọi “sơn trà”như người Trung Quốc, ta chọn tên “trà mi”là cách gọi riêng của người Việt. Trong ấn bản chữ Nôm của Truyện Kiều (bản Lâm Nhu Phu, 1870), hai chữ “trà mi”được viết bằng hai chữ Nôm như sau: chữ “trà”được viết với bộ “dậu” với chữ “mi”là cây kê bên phải (từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức mượn chữ “mi”tiếng Nôm này). Trong Từ điển Truyện Kiều, học giả Đào Duy Anh trong phần văn bản viết hai chữ “trà mi”là “trà(đồ)mi”nhằm gợi ý “trà mi” cũng có thể đọc là “đồ mi”, tuy nhiên trong phần “Từ điển” lại giải thích là “nước ta có hoa trà mi, nhưng khác với đồ mi của Trung Quốc”. Theo thiển ý, hai chữ Nôm nói trên chỉ có cách đọc là “trà mi”chứ không thể đọc là “đồ mi”, vì trong chữ Han, loài “cây nhỏ, cành lá có gai, đầu mùa hè nở hoa sắc trằng, hoa nở sau các thứ hoa cây khac” mà Đào tiên sinh đã giải thich về “hoa đồ mi” trong cuốn Hán Việt từ điển do tiên sinh biên soạn, chính là hoa mâm xôi (Robus rosacfolius) trongtiếng Việt.
Qua bài viết ngắn ngủi này, chúng tôi hy vọng đã chứng mình được rằng cây hải đường mà chứng ta thường ngỡ là tương ứng với cây camellia/camélia trong tiếng Anh và tiếng Pháp kỳ thực là một loài cây có hoa khác, có tên khoa học là Malus spectabilis. Mặt khác, tên gọi tiếng Việt của hoa camellia/camélia đúng ra phải là trà mi.
Trong Truyện Kiều, cụ Tiên Điền Nguyễn Du – nhà thơ muôn thuở của dân tộc Việt Nam – đã dùng tên của hai loài hoa này chính xác và tách bạch. Tiên Điền tiên sinh mượn hoa hải đường nhằm nói lên những nét yểu điệu gợi cảm của nàng Kiều qua bóng dáng của một Dương Quý Phi kiều diễm. Khi định mệnh đã đưa đẩy Kiều vào tay của Mã Giám Sinh và Sở Khanh – những kẻ “thương gì đến ngọc tiếc gì đến hương” – tiên sinh đã mượn hình tượng của đóa hoa trà mi nhằm nói lên kiếp hồng nhan trước những thử thách quá ư nghiệt ngã của số phận.
Nhân thể, chúng tôi cũng xin nói rằng trong Đại Nam nhất thống chí, trong phần nói vê các loài hoa ở “Kinh sư”(Huế) và “Phủ Thừa Thiên”, có đoạn nhắc đến hoa hải đường. Vì có liên quan đến bài viết này, chúng tôi xin trích lại nguyên văn: “Kính xét bài thơ ‘Vịnh hải đường’trong Minh Mệnh thánh chế có lời chú rằng: Theo Quần phương phả thì hải đường có bốn loại, là chiêm cánh, tây phủ, thùy lục và mộc qua, ngoài ra lại có hoa vàng loại hoa thơm, nhưng đều là cánh mềm, hoa nhỏ, hoặc sắc vàng, hoặc đỏ lợt, hoặc như yên chỉ, chí có mấy sắc ấy thôi, hải đường phương Nam thì cây cao, lá to vừa dài vừa nhọn hoặc sắc đỏ tươi, ruột có nhị, cánh to mà dày, lúc nở đẹp hơnhoa phù dung, nên tục gọi là “sen cạn”; so với hải đường ở đất Thục thì đẹp hơn nhiều, tựa hồ phương Bắc không có giống hoa hải đường này, cho nên những lời trước thuật có khác. Còn như nói rằng ‘hoa đẹp lá tươi, mềm mại như xử nữ, hây say như Dương Phi say, yểu điệu như Tây Tử thực chưa hình dung hết được vẻ đẹp của hoa ây. Năm Minh Mệnh thứ 17 khắc hình tượng vào Nghị đỉnh. Lại có một loại là Kim ti hải đường”.
Đọc đoạn trích dẫn ở trên, ta có thể thấy là ngay từ thời vua Minh Mệnh đã có sự nhầm lẫn giữa hoa hải đường và hoa trà mi. Những loại hoa có “cánh mềm” trong phần trích dẫn đúng là hoa hải đường, nhưng loại hoa gọi là “Hải đường phương Nam thì cây cao, lá vừa to vừa dài vừa nhọn, hoặc sắc đỏ tươi, ruột có nhị, cánh to mà dày…”thì đúng ra phải gọi là hoa trà mi chứ không phải là hoa hải đường.
Nguyễn Du viết Truyện Kiều trước đó (dưới triều vua Gia Long), nhưng tại sao thi hào họ Nguyễn lại có thể phân biệt hai loại hoa này rạch ròi đến thế? Chúng ta có thể phỏng đoán là ngoài những kiến thức thu thập qua sách vở, chắc hẳn Nguyễn Du đã thấy tận mắt hai loài hoa này trong lần đi sứ sang Trung Quốc vào năm 1813.
Một thức giả cũng vừa cho chúng tôi hay là khi tìm trong Truyện Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế (Nxb Hà Nội, 1991) hai câu có từ “hải đường” trích dẫn ở trên thì “thấy đó là những câu tả cảnh tả tình do Nguyễn Du sáng tác”, chứ không có trong nguyên truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (bản của Nguyễn Đình Diệm). Điều này càng xác nhận sự hiểu biết chính xác về cây cỏ cũng như tinh thần “vận dụng sáng tạo”của Tiên Điền tiên sinh khi viết Truyện Kiều.■
1. Theo học giả Hoàng Xuân Hãn và một số nhà nghiên cứu khác, chữ “gieo”trong câu này phải đọc “treo” mới đúng, hoăc chữ “tỏ”trong câu “con ong đã tỏ đường đi lối về”phải đọc là “mở”. Vì chưa bắt kịp với những nghiên cứu về Truyện Kiều hiện nay, trong khuôn khổ bài này chúng tôi xin tạm thời dựa theo cách đọc hiện hành.


THÔNG BÁO MỜI DỰ LỄ DÂNG HƯƠNG TƯỞNG NIỆM LẦN THỨ 197 NGÀY MẤT ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU VÀO 7 GIỜ NGÀY 29-9-2017



GS. Phong Lê phát biểu tại Lễ giỗ lần thứ 196 Đại thi hào Nguyễn Du
Ngày 08/9/1924 (10/8/ Giáp Tý), Ban Văn học Hội khai trí Tiến Đức tổ chức giỗ lần thứ 104 Đại thi hào Nguyễn Du với sự tham gia của nhiều học giả, nhân sĩ, trí thức nổi tiếng cả nước.
Ngày 10/09/2016 (10/8/ Bính Thân), tỉnh Hà Tĩnh, Hội Kiều học Việt Nam đã phối hợp tổ chức giỗ lần thứ 196 Đại thi hào Nguyễn Du tại Tiên Điền, Nghi Xuân với sự tham gia của nhiều học giả nổi tiếng và các hội viên Hội Kiều học Việt Nam trong toàn quốc.
Năm nay, vào chiều 29/9/2017 (10/8/ Đinh Dậu), Văn phòng Đại diện Hội kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh sẽ tổ chức Lễ dâng hương tưởng niệm lần thứ 197 ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du và Lễ phát thẻ Hội viên, Báo cáo chương trình hoạt động năm 2017.
Thành phần tham dự:
Tham dự buổi lễ sẽ có lãnh đạo Hội Kiều học Việt Nam, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh, UBND huyện Nghi Xuân; Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du; 62 Hội viên Hội kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh và Phóng viên Báo Hà Tĩnh, Đài PTTH Hà Tĩnh, Tạp chí Văn hóa Hà Tĩnh.
Thời gian, địa điểm:
- Thời gian:  7giờ 15 đến 11 giờ 30 ngày 29/9/2017
- Địa điểm: Khu di tích Đại Thi hào Nguyễn Du, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân

Dâng hương tại mộ giỗ lần thứ 196 Đại thi hào Nguyễn Du

        Chương trình sẽ có các nội dung chính sau:
1. Dâng hương, hoa tại khu mộ: 7giờ 15 đến 7 giờ 45 ngày 29/9/2017
2. Dâng hương tại nhà thờ: 8 giờ 00 đến 8 giờ 45 ngày 29/9/2017
3. Lễ trao tặng mộc bản về danh nhân văn hóa Thế giới Đại Thi hào Nguyễn Du của Cục Văn thư và lưu trữ Nhà nước: từ 9giờ 00 đến 10h giờ 00 ngày 29/9/2017. Địa điểm: Hội trường lớn Ban quản lý di tích Nguyễn Du.
3. Lễ trao thẻ hội viên và sinh hoạt hội quý III/2017: từ 10giờ 00 đến 11h giờ 30 ngày 29/9/2017. Địa điểm: Hội trường lớn Ban quản lý di tích Nguyễn Du.
      4. Mời cơn thân mật các hội viên và đại biểu dự lễ.  11 giờ 30 ngày 29/9/2017
                        Vậy xin thông báo để các hội viên quan tâm, sắp xếp thời gian dự lễ.
(Có xe đưa đón các đại biểu và hội viên đi dự lễ xuất phát từ Văn phòng Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, số 18, Đại lộ xô viết Nghệ Tĩnh, thành phố Hà Tĩnh, xuất phát vào lúc 6 giờ 15’. Quý vị đăng ký qua điện thoại của bà Nguyễn Thị Nga: 0979560622)

VĂN TẾ ĐẠI THI HÀO DÂN TỘC NGUYỄN DU TẠI LỄ GIỖ LẦN THỨ 196 (10/8 BÍNH THÂN)


 Nhà văn Hoàng Khôi (Vũ Ngọc Khôi), phụng đọc tại buổi lễ. Ảnh: TVS

Phụng soạn: Nhà thơ Hoài Yên quê An Khánh, Hà Đông, Hà Nội.
       Phụng đọc: Nhà văn Hoàng Khôi (Vũ Ngọc Khôi) 

(Tùng! Tùng Tùng!)
Ô hô…!
1. Mây Hồng Lĩnh khi tan khi hợp, thiết tha câu hữu cảm tất thông (Tùng)
Nước Lam giang lúc đục lúc trong, khẩn khoản chữ hữu cầu tất ứng (Tùng!Tùng!Tùng)
Nhớ linh xưa,
        2. Từ Nguyễn Thiến tại miền Canh Hoạch / danh để khoa bảng đầu tiên (Tùng)
   Đến Tố Như ở chốn Tiên Điền / nghiệp nối thi thư đệ nhất (Tùng/Tùng/Tùng).
         3. Cả dòng tộc thấm nhuần ơn mưa móc / dẫu đã biết Lê Triều
                                mạt vận / chữ cô trung luôn dạ tạc lòng ghi (Tùng)
          Tấm tình riêng cảm phục đấng anh hùng / Dù cho rằng Nguyễn Huệ                                                                                                                                    
                    ngụy triều / vẫn tôn kính dẫu nhà tan nước mất (Tùng/Tùng/Tùng)     

                                    NHỚ TIÊN SINH
4. Bản chất hào hoa phong nhã / thông tuệ tính trời (Tùng)
                           Nếp nhà phú hậu danh gia / văn chương nết đất. (Tùng/Tùng/Tùng)
          5.  Ra Thăng Long khi cha mẹ mất / nhờ anh trai nuôi dưỡng /
                       học hành hôm sớm chuyên cần (Tùng)
             6. Vào Quỳnh Phụ lúc cửa nhà tan / cậy bố vợ cưu mang /
                                      lưu lạc tháng ngày tất bật. (Tùng/Tùng/Tùng)
        
                                         THƯƠNG ƠI!
                        7.  Hiền thảo nhân tình
                                Uyên thâm học vấn (Tùng).
                        8. Chí lớn mà chẳng gặp thời 
                           Tài cao nhưng đành lỡ vận! (Tùng/Tùng/Tùng)
          9. Ba mươi tuổi, mái đầu  trắng tuyết / thư kiếm dở dang (Tùng)
         Mười năm trời, kiếp sống lầm than / thân danh lận đận! (Tùng/Tùng/Tùng)
          10. Về Tiên Điền đất tổ / từng sắm vai liệp hộ nhiều phen (Tùng)
             Ở Hà Tĩnh quê cha / đã thử sức điếu đồ lắm bận. (Tùng/Tùng/Tùng)    
         11. Sức nho sinh trói gà không nổi /
                                    thú điền viên, quá sức nhọc nhằn (Tùng)
             Tài kẻ sĩ nổi tiếng mà chi /
                                    Chuyện tiền bạc, vô cùng túng quẫn! (Tùng/Tùng/Tùng)


          12. Khi đi chơi phường vải / đối thoại cùng o Sạ, o Uy (Tùng)
             Lúc dự hát ca trù / giao kết với Trường Lưu, Cổ Đạm (Tùng/Tùng/Tùng)
          13. Đọc sách cổ / gặp Kim Vân Kiều truyện /
                                           cả tình cả ý tương liên (Tùng)
              Múa bút thần / viết Đoạn Trường Tân Thanh / 
                                            chữ mệnh chữ tài tương đố!  (Tùng/Tùng/Tùng)
14. Giấc đoạn trường, giọt máu chảy đầu ngọn bút/ con mắt trông sáu cõi sâu sa (Tùng)
Khúc bạc mệnh, nước mắt thấm trên tờ hoa/ tấm lòng nghĩ tời ngàn đời gắn bó (Tùng/Tùng/Tùng)
          15. Thơ dự vào hàng ngũ tuyệt / văn tài nhả ngọc phun châu (Tùng)          
       Nôm đứng ở bảng đầu tiên / diệu nghệ thêu hoa dệt gấm. (Tùng/Tùng/Tùng)     

                                  TỚI NAY CHÚNG CON
           16.  Thưởng  thơ Nguyễn / người đều khóc Nguyễn /
                                  đời đắng cay tựa ớt tựa gừng (Tùng)
                Xem Truyện Kiều / ai nấy thương Kiều /
                                  kiếp chua chát như sung như mận! (Tùng/Tùng/Tùng)
         
           17. Khác mệnh Kiều nhiều năm trời lận đận / xứ Hồng Lam đang rạng rỡ, hanh thông (Tùng)
            Mới quê hương lắm khuôn mặt trẻ trung / dân Hà Tĩnh đang chung tay phát triển (Tùng/Tùng/Tùng)
           18. Đất địa linh ngút ngàn hồn thiêng sông núi/ mong người phù hộ độ trì để quốc thái – dân an (Tùng)
                Vùng nhân kiệt chan chứa anh linh thi hào / khấn cụ dắt dìu nâng đỡ cho quê giàu, nước mạnh (Tùng/Tùng/Tùng)
             19. Hội Kiều học / luận bình nghiên cứu /                
                                                tác phẩm mãi vang xa (Tùng/Tùng)
               UNESCO / công nhận tôn vinh  /
                                                Phương danh càng sâu đậm! (Tùng/Tùng/Tùng)
    
                                              THỰC LÀ:
                                    Một đời vinh hiển ngàn thâu
                                 Phải đâu một nấm cỏ khâu xanh rì!
              Ô hô…! Phục duy! Thượng hưởng (Tùng!Tùng!Tùng…)

                                                                                             một hồi trống)

VÀI SUY NGHĨ VỀ KHAI THÁC GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HÓA NGUYỄN DU - TRUYỆN KIỀU ĐỂ PHÁT TRIỂN DU LỊCH HÀ TĨNH

Nhà thơ Huy Cận với bạn yêu thơ trong Ngày thơ Việt Nam lần thứ Nhất, tổ chức vào Rằm tháng Giêng năm 2003
tại Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du, Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ảnh: TVS


                   THÁI VĂN SINH

            1. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Đại thi hào Nguyễn Du đã để lại một di sản văn hóa phi vật thể đồ sộ với nhiều tác phẩm văn chương bất hủ, cả chữ Hán và chữ Nôm. Về chữ Hán có ba tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục với 250 bài. Về chữ Nôm, có: Văn chiêu hồn (184 câu viết theo thể song thất lục bát), Thác lời trai phường nón (48 câu, viết bằng thể lục bát) và Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ (98 câu, viết theo lối văn tế)…
            Đặc biệt, với kiệt tác thơ Nôm Truyện Kiều (Đoạn trường tân thanh) gồm 3254 câu thơ theo thể lục bát, đã góp phần đưa văn học Việt Nam vượt ra khỏi bờ cõi của một quốc gia, trở thành một phần tinh hoa của văn hóa nhân loại, ghi dấu ấn văn học Việt Nam trên thi đàn quốc tế. Cho đến nay,  kiệt tác Truyện Kiều đã được dịch ra hơn 20 ngôn ngữ khác nhau trên thế giới với 35 bản dịch. Truyện Kiều đã làm cho Nguyễn Du, được sánh ngang với các đại thi hào của thế giới như: Aleksandr Sergeyevich Puskin (Nga), Johann Wolfgang von Goethe (Đức), William Shakespeare (Anh)...
Với những cống hiến của Đại thi hào Nguyễn Du cho nền văn học nước nhà và sự phát triển văn hóa của nhân loại, tháng 12/1964, Hội đồng Hòa bình thế giới ra quyết nghị tổ chức kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du (1675-1965) cùng với 8 danh nhân văn hoá trên toàn thế giới. Và vào ngày 25/10/2013, tại kỳ họp lần thứ 37 của Đại Hội đồng Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc (UNESCO) đã chính thức ban hành Nghị quyết số 37C/15 vinh danh Đại thi hào Nguyễn Du cùng với 107 Danh nhân văn hóa toàn thế giới nhân kỷ niệm 250 năm năm sinh của ông.
Như vậy đã từ lâu, Nguyễn Du và Truyện Kiều đã trở thành một phần giá trị quan trọng được tôn vinh trong di sản văn hóa nhân loại.
2. Du lịch văn hóa là xu hướng của các nước đang phát triển vì nó đem lại những giá trị lớn cho cộng đồng xã hội, và vì thế mà loại hình du lịch này đã trở thành nội dung chính của Hội nghị Bộ trưởng Du lịch Đông Á - Thái Bình Dương, được nhóm họp 2 năm một lần (Lần mới đây nhất vào ngày 11/06/2014 tại Việt Nam). Hà Tĩnh có một tài nguyên du lịch văn hóa phong phú với 02 đi tích cấp Quốc gia đặc biệt, 75 di tích cấp Quốc gia và gần 400 di tích cấp tỉnh, cùng nhiều loại hình văn nghệ dân gian đặc sắc, nhiều làng nghề, lễ hội truyền thống tồn tại và phát triển hàng trăm năm. Bên cạnh đó Hà Tĩnh có hai di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO công nhận: Ca trù di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại cần bảo vệ khẩn cấp (năm 2009) và dân ca Ví, Giặm di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại ( năm 2014).
Trong du lịch văn hóa thì các di tích danh nhân và những di sản phi vật thể của danh nhân là một trong những điểm mà du khách rất quan tâm khám phá. Cùng với các Khu di tích Trần Phú, Hà Huy Tập, Khu di tích Đại thi hào Nguyễn Du đã trở thành một điểm nhấn nổi bật trong bản đồ du lịch danh nhân của Hà Tĩnh. Khi đến tham quan khu di tích này, du khách thường khám phá các điểm sau:
Nhà thờ Nguyễn Du: Năm 1824, Nguyễn Ngũ cùng con cháu trong dòng họ đã đưa hài cốt Nguyễn Du về quê nhà cải táng và lập đền thờ ngay trên khu vườn cũ của ông tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (nay là thôn Thuận Mỹ, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân). Khoảng thời gian từ năm 1934 -1935 nhà thờ bị hỏng. Năm 1940, Hội Khai trí Tiến Đức cùng con cháu họ Nguyễn Tiên Điền xây dựng nhà thờ trong khu vườn họ Nguyễn. Năm 2010, nhà thờ Đại thi hào Nguyễn Du được xây dựng mới và khánh thành vào tháng 11/2012.
Nhà Văn thánh - Bình văn: Văn thánh hàng huyện thờ Khổng Tử do Nguyễn Nghiễm xây dựng. Trước đây, mỗi dịp xuân về các bậc túc nho trong vùng về đây báo ơn, bình văn, đọc thơ và tổ chức lễ "cầu khoa" cầu cho con em trong vùng thành danh trên con đường khoa cử.
Đàn tế, bia đá Nguyễn Quỳnh (ông nội Nguyễn Du): Năm 1762, sau khi Nguyễn Nghiễm được phong Tể tướng, ông cùng em trai là Nguyễn Trọng lập đàn tế, dựng bia đá tưởng nhớ công ơn của cha mẹ.
Mộ Đại thi hào Nguyễn Du: Nguyễn Du lâm bệnh và mất tại Huế vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (ngày 16 tháng 9 năm 1820) thọ 55 tuổi. Phần mộ đặt tại cánh đồng Bàu Đá, xã An Ninh, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1824, con là Nguyễn Ngũ và cháu là Nguyễn Thắng dời về cải táng trong vườn nhà tại xóm Tiền, thôn Lương Năng (nay là thôn Thuận Mỹ, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân). Với dự án Tôn tạo khu di tích Nguyễn Du bằng nguồn vốn Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hoá (1999 -2004), khu mộ đã được xây dựng, chỉnh trang lại như hiện nay.
Đền thờ, mộ Nguyễn Nghiễm (1708-1776): Nguyễn Nghiễm là con trai thứ hai của Lĩnh Nam công Nguyễn Quỳnh và là thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du. Ông là nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà sử học uyên bác và là người đứng đầu về con đường cử nghiệp, khoa bảng họ Nguyễn - Tiên Điền. Ông đậu tiến sỹ năm 1731, làm Tế tửu Quốc Tử Giám (1742), giữ chức Tể tướng (1762) và trong gần 50 năm làm quan của mình, ông đã để lại nhiều trước tác có giá trị như: “Quân trung liện vịnh”, “Xuân đình tạp vịnh”, “Cổ lễ nhạc thi văn” và bài phú Nôm “Khổng Tử mộng Chu Công”... Đền thờ được xây dựng khi ông còn sống (sinh từ), thuộc thôn Bảo Kệ, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân và nhân dân thường gọi đây là đền “Đức Đại vương hai”. Phần mộ ông hiện nằm tại thôn Tiên Thanh xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân.
Đền thờ Nguyễn Trọng (1710 - 1789), Nguyễn Trọng là chú ruột của Nguyễn Du, người giỏi về văn thơ, lý, số, y học. Đền thờ được xây dựng khi ông còn sống (sinh từ)) ở thôn Tiên Quang, xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân. Kiến trúc đơn giản, nội thất còn giữ lại nhiều đồ tế khí, hoành phi câu đối có giá trị. Trước đền thờ có voi, ngựa đá, tấm bia Tích thiện gia” và trong khuôn viên còn có mộ phần của ông.
Khu lăng Văn Sự: Là khu mộ tổ đời thứ 3 của họ Nguyễn - Tiên Điền, gồm mộ Nguyễn Thể - thân phụ Nguyễn Quỳnh; Thuật Hiên công Nguyễn Khản; Phương Trạch hầu Nguyễn Ổn; Chính thất Lê Quý thị (vợ Phương Trạch hầu); Giới Hiên công Nguyễn Huệ và chính thất Nguyễn Quý Thị (vợ Nguyễn Huệ).
Không gian văn hóa Nguyễn Du: Xây dựng vào năm 2000, gồm Tượng đài, Thư viện Nguyễn Du, Hội trường; Nhà thờ, Nhà bảo tàng Nguyễn Du...
3. Mặc dù là một điểm nhấn trong quy hoạch du lịch - di sản của Hà Tĩnh nhưng thực sự Khu di tích này vẫn chưa phát triển đúng tầm vóc vốn có của nó. Đến nay, mỗi năm Khu lưu niệm Nguyễn Du đón từ 1,8 đến 2 vạn lượt khách trong và ngoài nước đến tham quan. Trong khi đó, nằm trong chuỗi du lịch lịch sử - văn hóa Hà Tĩnh, Khu di tích Ngã Ba Đồng Lộc đã có đến gần 30 vạn du khách trong và ngoài nước đến tham quan mỗi năm, gấp gần 15 lần so với di tích Nguyễn Du. Nguyên nhân cơ bản theo chúng tôi là kinh phí đầu tư cho di tích Nguyễn Du vẫn còn quá khiêm tốn nên sản phẩm du lịch văn hóa ở đây chưa thu hút được du khách. Theo thống kê chưa đầy đủ thì kinh phí đầu tư trùng tu tôn tạo di tích này trong gần 25 qua, kể từ ngày tái lập tỉnh đến nay chỉ mới gần 50 tỷ đồng, trong đó cho đợt kỷ niệm 250 năm ngày sinh của Đại thi hào là 23 tỷ đồng. Nếu so sánh với kinh phí trùng tu, tôn tạo và các hoạt động kỷ niệm cho một số di tích danh nhân khác trên địa bàn trong nhiều năm lại đây thường là xấp xỉ 100 tỷ đồng thì quả là mức đầu tư quá khiêm tốn so với một danh nhân văn hóa thế giới.
Cách đây trên 10 năm, một doanh nhân nước ngoài đã có ý tưởng xin đầu tư vào Khu di tích này bằng cách tái tạo lại không gian văn hóa Truyện Kiều để vừa thu hút du khách, quảng bá các giá trị di sản văn hóa Nguyễn Du, vừa làm trường quay giả cổ để quay phim cổ trang như Hàn Quốc và Trung Quốc từng làm. Tuy nhiên, vì nhiều lý do nên ý tưởng này không thực hiện được.
Ngày 21/6/2005, với nỗ lực tham mưu của ngành văn hóa và lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh, Văn phòng Chính phủ đã ra Thông báo số 117/TB-VPCP trong đó có nội dung đồng ý chủ trương tổ chức kỷ niệm 240 năm ngày sinh Đại thi hào và lập quy hoạch xây dựng Dự án Khu văn hóa - Du lịch Nguyễn Du. Và chính thức từ đây vấn đề đầu tư để phát huy giá trị di sản Nguyễn Du - Truyện Kiều theo hướng phát triển du lịch được đặt ra một cách bài bản. Đây là một điều rất đáng phấn khởi cho những ai yêu kính Nguyễn Du và Truyện Kiều. Tuy nhiên qua gần một thập kỷ, vấn đề này vẫn chỉ mới là quy hoạch và quy hoạch này cũng đã thay đổi so với ý tưởng ban đầu.
            Năm 2005, quy hoạch này có tên là Quy hoạch xây dựng Khu văn hóa - Du lịch Nguyễn Du với ý tưởng vật thể hóa và tạo hình hóa văn chương và cuộc đời của Nguyễn Du. Cụ thể bằng phương pháp sử dụng các yếu tố kiến trúc và cảnh quan, tượng và nhóm tượng, phù điêu, tranh tường cùng nghệ thuật thư pháp và nghệ thuật xếp đặt trong không gian lớn để cụ thể hóa các hình ảnh được đặc tả trong văn chương Nguyễn Du, làm cho di sản thơ văn Nguyễn Du vốn được biểu hiện bằng ngôn ngữ sẽ trở thành vật thể tạo hình có thể nhìn thấy, cảm thấy và nghe thấy được. Đặc biệt là ở đây sẽ tái tạo lại không gian văn hóa Truyện Kiều với các nhân vật và cảnh quan trong Truyện Kiều.
            Ngày 22/8/2012, Ủy ban nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã có Quyết định số 2450/UBND - VX phê duyệt quy hoạch chi tiết Khu văn hóa du lịch Nguyễn Du với tổng diện tích 339,75ha, thuộc phạm vi xã Tiên Điền và một phần diện tích thị trấn Nghi Xuân và xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân.
            Năm 2013, quy hoạch này có tên là Quy hoạch tổng thể bảo tồn tôn tạo Khu lưu niệm Nguyễn Du được phê duyệt theo Quyết định số 2542/QĐ-TTg ngày 20/12/2013 của Thủ tướng Chính phủ. Tầm vóc của quy hoạch bấy giờ lớn hơn so với trước đây. Quy hoạch bao gồm 4 nhóm phân khu chức năng chính: Khu lưu niệm, quảng trường Tố Như, không gian thơ ca Nguyễn Du; không gian văn hóa truyền thống Tiên Điền, Nghi Xuân và Trung tâm diễn giải du lịch văn hóa lịch sử gắn với giá trị thơ ca và cuộc đời Đại thi hào Nguyễn Du; không gian Nguyễn Du; không gian phong cảnh tưởng niệm và mộ Đại thi hào Nguyễn Du. Ngoài các phân khu nói trên còn có 2 trung tâm: Trung tâm dịch vụ du lịch - điều hành và Trung tâm giới thiệu sản vật địa phương - nghề truyền thống.
Việc triển khai Quy hoạch tổng thể bảo tồn tôn tạo Khu lưu niệm Nguyễn Du sẽ làm cho những di sản văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều được bảo tồn và phát huy giá trị đúng tầm. Tuy nhiên vấn đề mà chúng ta quan tâm vẫn là một thập kỷ làm quy hoạch thì đến bao giờ quy hoạch đó trở thành hiện thực.
4. Trên thế gới có nhiều những điểm du lịch thu hút du khách là khu lưu niệm các thi hào, văn hào nổi tiếng. Tầm vóc của Nguyễn Du và Truyện Kiều đã sánh ngang nhiều đại diện văn học của thế giới, được nhiều người biết đến. Đặc biệt gần đây, ngay cả trong ngôn ngữ ngoại giao, Truyện Kiều cũng được đưa vào vận dụng. Vào tháng 11/2000, khi thực hiện chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam trên cương vị Tổng thống Mỹ, ông Bill Clinton đã để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp, gần gũi khi đọc hai câu Kiều khi đề cập chiều hướng phát triển của quan hệ hai nước: "Sen tàn cúc lại nở hoa / Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân". Và mới đây, ngày 7/7/2015, Phó Tổng thống Mỹ Joe Biden đã chủ trì buổi tiệc chiêu đãi trọng thể Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đọc 2 câu Kiều để diễn tả quan hệ Việt - Mỹ: “Trời còn để có hôm nay / Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”. Những điều đó cho thấy rằng di sản văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều có một tầm lan tỏa sâu sắc và rộng rãi, không chỉ ở Việt Nam mà cả thế giới. Chính vì vậy, khai thác di sản văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều để phát triển du lịch phải là một chiến lược của Hà Tĩnh. Tầm vóc của di sản văn hóa Nguyễn Du và Truyện Kiều rất lớn, nếu khai thác đúng tài nguyên này, tin chắc sẽ tạo được một bước phát triển ngoạn mục của du lịch Hà Tĩnh./.
 TVS

Tài liệu tham khảo:
- Tài liệu tuyên truyền kỷ niệm 250 năm ngày sinh và vinh danh danh nhân văn hóa thế giới Đại thi hào Nguyễn Du, Sở VHTT&DL Hà Tĩnh, tháng 7/2014.
- Các tài liệu do Ban quản lý Khu di tích Nguyễn Du, Ban quản lý Khu di tích Ngã Ba Đồng lộc, Ban quản lý xây dựng cơ bản Sở VHTT&DL Hà Tĩnh cung cấp.






THƯ NGỎ

Kính thưa quý vị!      Nguyễn Du (1765-1820) là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông ...