DOANH NHÂN VỚI “TRUYỆN KIỀU” VÀ “TRUYỆN KIỀU” VỚI DOANH NHÂN

LTS: Xin trân trọng giới thiệu với độc giả phát biểu khai mạc Hội thảo của Giáo sư Phong Lê, Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam tại Hội thảo "Doanh nhân với Truyện Kiều, Truyện Kiều với doanh nhân" 
Giáo sư Phong Lê , TS Võ Hồng Hải, TS Phạm Văn Tuần chủ trì Hội thảo. Ảnh TVS

                  GIÁO SƯ PHONG LÊ
Ở phát biểu khai mạc này, tôi muốn có một hình dung về một gắn kết giữa hai vế, đó là vế Doanh nhân, và vế Truyện Kiều.
Về Doanh nhân, tôi nghĩ rất cần ôn lại một lịch sử dài với những biến đổi và thăng trầm của nó.
Nhiều nghìn năm trong xã hội phong kiến, dựa trên hệ ý thức Nho giáo và nền kinh tế tiểu nông, trật tự gần như không thay đổi của các thành phần cư dân - đó là Sỹ, Nông, Công, Thương. Chính sự coi nhẹ và kìm hãm hai thành phần Công và Thương tạo nên sự đình trệ của xã hội. Thời hiện đại dựa trên năng lực kiến tạo của giai cấp tư sản đã được thực hiện sớm ở phương Tây, và đưa các doanh nhân lên vị trí hàng đầu, tạo nên một chuyển động nhảy vọt làm nên gương mặt thế giới hôm nay. Việt Nam ta, sau Cách mạng tháng Tám, do hoàn cảnh chiến tranh và chịu áp lực của cuộc chiến giữa hai phe, trong một thời gian dài giai cấp tư sản và vị trí của các doanh nhân hoàn toàn bị lu mờ, thậm chí còn là đối tượng của cách mạng. Phải đến thời Đổi mới, trước áp lực của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế thì tình thế mới có sự thay đổi, nhưng vẫn còn rất chậm chạp vì trăm thứ khó khăn bủa vây, trong đó có nguyên nhân chủ quan nằm trong thiết chế thượng tầng khiến cho thành phần kinh tế tư nhân không thể phát triển. Phải sang thế kỷ XXI thì một tháo gỡ và khởi sắc cho tình thế trên mới xuất hiện trong các Nghị quyết mới của Đảng và hoạt động của chính quyền, chuyển từ chính quyền là công cụ chuyên chính sang chính quyền kiến tạo và phục vụ. Con số 60 vạn doanh nghiệp hiện có hôm nay, cùng với ao ước 1 triệu doanh nghiệp sẽ có năm 2020 cho ta một hy vọng tình thế đất nước sẽ thay đổi với vai trò của các doanh nhân, khi mọi khó khăn của họ dần dần và từng bước được tháo gỡ. Nếu tính trung bình mỗi doanh nghiệp tạo được công ăn việc làm cho ít nhất 50 người thì đất nước trên dưới 100 triệu dân của chúng ta sẽ có 50 triệu người có việc làm. Và khái niệm giàu có cùng mục tiêu làm giàu sẽ là một cái đích hấp dẫn, chung cho cá nhân và cộng đồng, thay cho sự kỳ thị người giàu và mục tiêu chia đều cái đói cho mọi người, trong một thời dài còn chưa xa.
Về Truyện Kiều. Trước khi nói đến Truyện Kiều cần phải nói qua về Nguyễn Du.
Đối với dân tộc Việt Nam, Nguyễn Du là một tác gia lớn, với một sự nghiệp viết không thực đồ sộ nhưng có giá trị kết tinh rất cao. Trước hết đó là ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (78 bài), Nam Trung tạp ngâm (34 bài), Bắc hành tạp lục (131 bài) in rất đậm bản sắc và bản lĩnh cá nhân của một hồn thơ rất giàu tình thương đời, tình yêu nước và yêu dân. Cùng với thơ chữ Hán là thơ Nôm, với Văn tế thập loại chúng sinh, 184 câu song thất lục bát, dồn chứa một cảm thông cùng tận với tất cả những thân phận khổ đau, bất hạnh. Trước đó là hai tác phẩm ngắn ở tuổi hoa niên: Thác lời trai phường nónSinh tế Trường Lưu nhị nữ
Nếu chỉ bấy nhiêu thôi, Nguyễn Du cũng đã đủ tư cách một tác gia tiêu biểu, ở hàng đầu của văn chương Việt trung đại như nhiều tên tuổi khác trước và sau ông. Thế nhưng Nguyễn Du còn là tác giả của Truyện Kiều; và đây mới thực là một sự kiện làm thay đổi tầm vóc, khiến cho Nguyễn Du trở thành một đỉnh cao đột xuất của văn chương Việt; và với tầm vóc đó, rất dễ dàng và nhanh chóng, không chỉ công chúng Việt mà về sau là cả nhân loại nhận ra ngay một tương đồng giữa Nguyễn Du với nhiều danh nhân khác trên thế giới như Đantê (1265-1321) với Thần khúc của Ý; như Xecvăngtet (1547 – 1616) với Đông ki sốt của Tây Ban Nha; như Gớt (1749-1832) với Phaux của Đức; như Puskin (1799-1837) với Épghênhi Ônêghin của Nga… Có nghĩa là, cũng như Thần khúc, Đông ki sốt, Phaux, Épghênhi Ônêghin, Truyện Kiều là kết quả một thăng hoa đột xuất của Nguyễn Du, khiến cho chỉ cần nói đến Truyện Kiều là đủ để nói Nguyễn Du - người đã đem lại một giá trị tinh thần rất tươi mới và đặc trưng cho văn chương Việt, ngôn ngữ Việt, bản sắc Việt, hồn Việt…
Trên dưới 35 văn bản dịch Truyện Kiều của hơn 20 ngôn ngữ trên thế giới trong hơn một thế kỷ qua, và vẫn còn đang được tiếp tục - đó là đường biên rộng nhất cho sức lan tỏa của một tác phẩm.
Cũng cần lưu ý là nhân loại hôm nay có trên 200 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chắc là văn học dân gian và văn học thành văn ở mỗi nơi đều có; nhưng để có những tác gia gắn với những kiệt tác mang giá trị nhân loại, được cả thế giới tôn vinh thì chắc là không nhiều, chỉ ở con số chục. Và Truyện Kiều của Nguyễn Du ở Việt Nam ta là một trong số đó.
Truyện Kiều có sự sống bền vững như thế nào thì đã có một lịch sử ngót 200 năm minh chứng, với bao nhiêu bộ tuyển hàng nghìn trang do nhiều trăm tác giả thành danh viết ra, nếu tính từ bài viết đầu tiên, năm 1820 của Mộng Liên Đường chủ nhân: “… nếu không có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì không thể có cái bút lực đó”.
200 năm không lúc nào nhân dân ta ngừng nghỉ việc đọc Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, tập Kiều, xướng hoạ về Kiều, dựng sân khấu Kiều… Và bói Kiều. Bởi lòng tin Kiều trả lời được tất cả mọi tình huống sống ở đời; và con người ở bất cứ hoàn cảnh nào, đứng trước câu hỏi nào cũng có thể tìm được lời giải đáp cho mình sau lời khấn: “Lạy ông Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thuý Kiều…”
3254 câu Kiều, đó là bộ bách khoa toàn thư của đời sống Việt trong hơn 200 năm qua. 3254 câu, câu nào cũng có thể in sâu vào bộ nhớ con người, để cho những bà mẹ mù chữ có thể thuộc lòng hàng trăm câu, hoặc đọc ngược từng đoạn mà vận vào mọi tình huống sống của đời mình; để cùng với ca dao, dân ca khắp các vùng miền mà tạo nên hồn cốt Việt, tâm linh Việt, bản sắc Việt, bản lĩnh Việt…
*
Trở lại mối quan hệ giữa Doanh nhân với Truyện Kiều, và Truyện Kiều với Doanh nhân ở thời điểm hôm nay.
Nói Nguyễn Du trước hết là nói sự kết đọng nỗi đau nhân sinh trong hai câu thơ bất hủ:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
(Truyện Kiều)
Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu
(Văn chiêu hồn)
Truyện Kiều không phải là bài ca chống lễ giáo như tất cả các truyện thơ nôm ra đời cùng thời, và về sau. Mà là một chủ nghĩa nhân đạo rộng lớn ôm hết mọi khổ đau trong kiếp sống nhân sinh của một nửa nhân loại.
Và nói thế giới nhân sinh Nguyễn Du còn là nói “thập loại chúng sinh”. Mười loại chứ không phải ba, bốn hoặc bảy, tám…
Chị Lành, con gái Thầy Tú Nghệ, một người được tôn vinh là cây từ điển sống về Truyện Kiều của vùng Nghệ tĩnh những năm 60, 70 thế kỷ trước phát biểu tại Hội thảo.
                                                                                                                                                                                                 Ảnh TVS
Tất cả chúng ta ở đây, gồm các anh chị, nam và nữ, các quý ông quý bà có ai ở ngoài tầm quan sát của Nguyễn Du? Do vậy mà mọi trải nghiệm cùng khát vọng trao truyền hoặc chia sẻ của Nguyễn Du là phủ khắp mọi mặt đời sống; là sự đúc kết những bài học sống, xử thế có ý nghĩa nhân loại và cho muôn đời. Nói cách khác, có tình huống nào của đời sống mà vượt ra khỏi được tầm ngắm hoặc vùng phủ sóng của Nguyễn Du, qua 3254 câu, không câu nào có thể bỏ sót hoặc lướt qua. Đến cả một xứ sở xa lạ với ta như Hoa Kỳ mà hai Tổng thống và một Phó Tổng thống cũng biết cách vận Kiều trong giao tiếp:
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân
                                         (B.Clinton - 2000)
Trời còn để có hôm nay
Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời
                                         (J.Biden - 2015)
Rằng trăm năm cũng từ đây
Của tin gọi một chút này làm ghi
                                         (B.Obama - 2016)
Vận Kiều vào mọi tình huống cụ thể của đời sống, đó là thói quen, gần như là tín ngưỡng của người dân Việt thuộc mọi tầng lớp, suốt hai trăm năm qua. Trước đây là trí thức và nông dân, kể từ một ông vua tự nhận mình là hay chữ như Tự Đức đến bất cứ ai thuộc trong số nhân quần mù chữ. Còn bây giờ là mọi tầng lớp cư dân, xét theo xã hội học hiện đại (chứ không phải xã hội học tư sản) là gồm 5 bộ phận: giới hoạt động chính trị, giới quản lý hành chính, giới doanh nhân, giới trí thức, và những người lao động có kỹ năng nghề nghiệp. Năm thành phần cư dân, chứ không phải là cách chẻ nhỏ ra thành bần, cố, trung nông và phú nông, địa chủ; là vô sản và tư sản hoặc tiểu tư sản (trong đó có giới trí thức)… Hai lần kỷ niệm năm sinh, vào năm 1965 và năm 2015 là hai lần Nguyễn Du bước ra đại lộ văn minh nhân loại. Sau lần thứ hai, kỷ niệm 250 năm sinh - năm 2015, chúng ta đang xích lại gần tới kỷ niệm 200 năm mất của Đại thi hào, năm 2020. Đó là ngày giỗ lớn của dân tộc Việt. Xét theo tâm linh phương Đông và Việt Nam ta thì đó là ngày thiêng. Cuộc toạ đàm và giao lưu hôm nay là nhằm hướng tới ngày giỗ lớn đó, khi đất nước đang chuyển vào một vận hội lớn, nhằm tạo nên sự phát triển nhanh chóng và bền vững cho đất nước; sứ mệnh đó trước hết đặt lên vai giới Doanh nhân và nền kinh tế Tư nhân, như trong các Nghị quyết của Đảng, và mọi bàn thảo của các Đoàn thể và Quốc hội gần đây.
Hy vọng những phát biểu dưới hình thức giao lưu và toạ đàm hôm nay sẽ là minh chứng cho các giá trị tinh thần mang tính nhân loại và vĩnh cửu được kết tinh từ những đỉnh cao kiệt xuất của văn hoá dân tộc - như Nguyễn Du.  
Tiếp đây là bài phát biểu của TS. Phạm Văn Tuần – Tổng Giám đốc Hanvico Ấm áp như lòng mẹ; người con của quê hương Hà Tĩnh; người bạn rất thân thiết của Hội Kiều học Việt Nam; người đồng tổ chức cuộc giao lưu tọa đàm rất có ý nghĩa này.
    
    Thảo 29/5/2017
  Chữa tháng 9/2017





TRUYỆN KIỀU VÀ VẤN ĐỀ KINH DOANH VÀI NÉT TỔNG QUAN

LTS: Xin tiếp tục giới thiệu tham luận tại Hội thảo: “Doanh nhân với Truyện Kiều & Truyện Kiều với doanh nhân”. Bài 2 

Tác giả trình bày tham luận tại Hội thảo. Ảnh TVS
TRẦN ĐÌNH TUẤN
Việt Nam là một quốc gia đang phát triển với nền kinh tế thị trường trong bối cảnh kinh tế toàn cầu hoá và thế giới đang hướng đến Xã hội tri thức (Báo cáo Thế giới 2005 của UNESCO đã lấy nhan đề là Hướng tới các Xã hội tri thức). Doanh nghiệp Việt Nam buộc phải khẳng định mình trước các vấn đề lớn: Anh là ai (quốc gia, dân tộc)? Có trách nhiệm gì với xã hội? Sứ mệnh của anh đóng góp được gì cho lợi ích cộng đồng. Và anh có thể sử dụng tri thức trong mọi lĩnh vực để phục vụ, phát triển con người một cách công bằng, an sinh và bền vững?...
Do đó, dù là một doanh nghiệp nhỏ, vừa, lớn; dù chỉ hoạt động trong phạm vi hẹp như địa phương, quốc gia nhưng cũng phải thực hiện toàn bộ các vấn đề trên bởi các hàng rào thuế quan giữa các nước được xoá bỏ và phải cạnh tranh với hàng hoá các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên địa phương, quốc gia của mình.
Vì thế, việc xây dựng Văn hoá doanh nghiệp Việt là yếu tố quan trọng hàng đầu, bức thiết và là nhiệm vụ chính trị hiện nay của doanh nhân. Trước xu thế đó, ngày 7.11. 2016, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phát biểu tại lễ công bố Ngày Văn hóa doanh nghiệp Việt Nam - 10/11 và phát động cuộc vận động “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam”.
Hội Kiều học được thành lập và chính thức hoạt động từ 3-11-2011, đánh dấu bước ngoặt lớn trong việc nghiên cứu và ứng dụng giá trị Truyện Kiều vào đời sống xã hội, góp phần nâng cao dân trí, thúc đẩy một xã hội học tập - một yếu tố căn bản để xây dựng Xã hội tri thức. Việc Hội Kiều học tổ chức Hội thảo: “Doanh nhân với Truyện Kiều & Truyện Kiều với doanh nhân” là một bước đi quan trọng, hợp xu thế thời đại để góp phần thực hiện Xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam”. Đồng thời mở ra vấn đề nghiên cứu mới nhằm ứng dụng giá trị Truyện Kiều vào đời sống xã hội, cụ thể với vấn đề kinh doanh trong xã hội hiện nay là hoàn toàn khoa học. Điều đó có nghĩa là cần phải đánh giá và chỉ ra mối quan hệ giữa Truyện Kiều với việc kinh doanh và Doanh nhân có thể học hỏi, vận dụng giá trị Truyện Kiều như thế nào?
1. Truyện Kiều - như một đối tượng trực tiếp được khai thác kinh doanh.
+ Truyện Kiều, tác phẩm được xuất bản nhiều nhất: Truyện Kiều ra đời trở thành một tác phẩm được lưu truyền và ăn khách nhất. Năm 1866, ấn bản Truyện Kiều chữ Nôm (khắc gỗ) là bản Truyện Kiều cổ nhất được tìm thấy do Liễu Văn đường phát hành và tái bản 1871. Có thế thấy các nhà in thời cổ nổi tiếng như Thịnh Mỹ đường, Quan Văn đường, Phúc Văn đường, Quảng Thịnh đường, Bảo Hoa các, các nhà in ở Hà Nội, Sài Gòn... đều không thể không tham gia xuất bản Truyện Kiều. Điều đó có thể hiểu nhu cầu xuất bản Truyện Kiều quá lớn và ngược lại, Truyện Kiều đã góp phần làm nên thương hiệu của các nhà in đó. Ngày nay, hầu hết các nhà xuất bản trên toàn quốc và các nhà sách tư nhân đều đã tham dự việc xuất bản và phát hành Truyện Kiều. Không thể thống kê nổi một con số chính xác bởi việc đó là khó có thể, và nó nằm ngoài sức tưởng tượng, nhưng có thể khẳng định đó là siêu lợi nhuận ở thể loại truyện thơ có thể mang lại từ một tác phẩm.
+ Tranh vẽ chủ đề Kiều, nhân vật Truyện Kiều, câu đối Kiều được khai thác tối đa trên các vật dụng đời sống: trên nhiều loại hình nghệ thuật dân gian như tranh tứ bình, tranh Đông Hồ, tranh in trên gốm sứ với các vật dụng như bình phong, khảm trai, lọ bình, ấm chén, bát đĩa... Nhiều tranh dân gian, vật phẩm trở thành đồ cổ đắt giá của các nhà sưu tập.
+ Truyện Kiều, chủ đề ăn khách của nghệ thuật sân khấu, âm nhạc, điện ảnh:  
Có lẽ xuất hiện sớm nhất trên sân khấu nghệ thuật do gánh hát Cải lương Châu Văn Tú (Năm Tú) trình diễn lần đầu tiên năm 1920 ở Mỹ Tho với vở Kim Vân Kiều 1 cùng các liên ca Kim Kiều hạnh ngộ, Viên Ngoại hàm oan, Kiều mộng Đạm Tiên, Từ Hải của của Trương Duy Toản soạn. Năm 1958 vở Kiều - Hoạn Thư (Hoạn Thư ghen) được Đoàn cải lương Hoa Mai dựng và diễn nhân lễ kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du. Vở Thúy Kiều của Việt Dung và Sĩ Tiến được Đoàn chuông vàng ở Hà Nội trình diễn hơn 1.000 đêm. Vở Kiều của nhà hát cải lương Hà Nội công diễn ở Thụy Sĩ 12 đêm liền năm 1995. Các vở Kim Kiều tái hợp của Sĩ Tiến, vở Kiều tái hồi Kim Trọng là các vở diễn thành công của đoàn Cải lương Quyết Tiến (Bắc Thái) diễn trong những năm 1960. Năm 1993, Kiều lại tái sinh trên sân khấu thủ đô qua vở diễn Kiều của Nhà hát Cải lương Hà Nội (với sự hợp nhất của hai đoàn Cải lương nổi tiếng là Kim Phụng và Chuông Vàng), tác giả Việt Dung, đạo diễn NSND Ngọc Dư.
Về ca kịch bài chòi, có hai vở là Kiều - Từ Hải của tác giả Nguyễn Tường Nhẫn chuyển thể, và Ngàn thu vọng mãi của cố nhà thơ Lưu Trọng Lư. Cả hai vở đều do Đoàn ca kịch Liên khu 5 biểu diễn.
Sân khấu chèo vẫn còn lưu giữ được những băng hình trích đoạn như Tú Bà đánh Kiều diễn ở miền Bắc những năm 1950. Gần đây, năm 2015, vở Hoạn Thư ghen do nhà biên kịch Phương Văn soạn, được chuyển thể chèo  diễn ở chiếu chèo làng Chuông (Ninh Giang – Hải Dương) do Hội Kiều học đồng tổ chức.
Truyện Kiều cũng đã bước vào điện ảnh rất sớm. Bộ phim Kim Vân Kiều do hãng phim và chiếu bóng Đông Dương (Indochine films et cinémas) của Pháp quay tại Hà Nội và làm hậu kỳ ở Pháp. Diễn viên do Đoàn tuồng Quảng Lạc ở Hà Nội thực hiện. Chúng ta biết rằng, điện ảnh thế giới ra đời năm 1885, nhưng phim truyện trên thế giới cũng chỉ mới xuất hiện sau chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) Ngày 19-9-1924 phim Kim Vân Kiều được công chiếu buổi đầu tiên tại rạp Casino ở Sài Gòn.
Năm 2016, phim tài liệu “Trăm năm trong cõi Truyện Kiều” của Đạo diễn Nguyễn Anh Tuấn, do Hội Kiều học tổ chức xây dựng đã phát sóng toàn quốc.
Vở kịch Hình thể Nguyễn Du với Kiều do NSND Lan Hương biên kịch, đạo diễn vừa được Nhà hát Tuổi Trẻ phục dựng và lựa chọn tham gia Liên hoan quốc tế sân khấu thử nghiệm tại Hà Nội năm 2012.
Vở kịch “Kiều” do NSND Phạm Anh Tú làm đạo diễn, nhà văn Nguyễn Hiếu chuyển thể kịch bản, do Nhà hát Kịch Việt Nam dàn dựng sẽ thể nghiệm nhiều loại hình nghệ thuật mới công diễn tháng 3/2017.
Vở Hợp xướng Truyện Kiều dài 65 phút của nhạc sĩ Vũ Đình Ân được biểu diễn bởi dàn hợp xướng nhạc hàn lâm kết hợp với nhạc dân ca đã xuất hiện lần đầu trên sân khấu ca múa nhạc hiện đại Việt Nam năm 2009.
Kiều ca - tác phẩm minh hoạ âm nhạc của Phạm Duy đã rất thành công. Tạp chí "Xưa và Nay" và Hiệp hội UNESCO Hà Nội đã tổ chức tại Bảo tàng Cách mạng VN năm 2009, do chính Phạm Duy dẫn chuyện. Kiều ca đã được in đĩa CD và phát hành tại hải ngoại gây được tiếng vang lớn.
+ TK, điểm tựa cho thú chơi và loại hình kinh doanh mới.
Câu lạc bộ Café Kiều ở Vinh, Vườn Kiều và Đại lộ Kim Vân Kiều ở Đồng Nai của ông Phạm Văn Khoát thu hút nhiều lượt người đến thăm quan và sinh hoạt. Hoặc như Bài bói Kiều (được thiết kế dưới dạng 52 tấm thẻ thơ  Kiều giống như bộ tú lơ khơ với 52 quân) của ông Phạm Đan Quế chế tác đã được xuất bản năm 2012... Tết năm 2017, Công ty TNHH An Hảo đã đưa ra thị trường Bộ lịch Truyện Kiều đặc biệt gồm 365 tranh minh hoạ TK cùng thơ Kiều đã được đông đảo người tiêu dùng đón nhận.
Và còn nhiều hoạt động kinh doanh, sáng tạo nghệ thuật khác dựa trên Truyện Kiều mà chúng tôi không thể thống kê và mô tả hết ở đây.
Thống kê trên cho thấy sức ảnh hưởng Truyện Kiều đến mọi lĩnh vực cuộc sống từ xưa cho đến nay. Điều đó có ý nghĩa rằng, Truyện Kiều vẫn là một chủ đề nóng được toàn dân Việt quan tâm tạo nên một thị trường mở, đầy tiềm năng để các doanh nhân chủ động sáng tạo khai thác.
2. Nghiên cứu Truyện Kiều, thực hiện các tác phẩm chủ đề Kiều, Nguyễn Du như một chứng chỉ nghề nghiệp trường đời, làm nên tên tuổi nhà nghiên cứu, các văn nghệ sĩ và thương hiệu Doanh Nghiệp.
+ Giới bình dân coi thơ Kiều là thước đo là người yêu thơ, sính thơ và sành thơ.
Trong TK, Khi Từ Hải và Kiều gặp gỡ nhau có đoạn:
Nàng rằng: “Người dạy quá lời,
Thân này còn dám xem ai làm thường!
Chút riêng chọn đá thử vàng,
2188. Biết đâu mà gởi can tràng vào đâu?
Còn như vào trước ra sau,
           Ai cho kén chọn vàng thau tại mình?”
Từ rằng: “Lời nói hữu tình,
2192. Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên quân.
Bình Nguyên quân tên Triệu Thắng, đời Chiến quốc, biết nhìn người, hào hiệp, nuôi đến ba ngàn thực khách. Câu thơ của Cao Thích nói về ông: "Chẳng biết gan mật hướng vào ai, Khiến người ta lại nhớ đến Bình Nguyên quân". Câu 2188. Kiều nói: "Biết đâu mà gửi càn tràng (gan ruột)... " là Kiều nói cái tứ thơ của Cao Thích mà bỏ lửng vế sau (Ngụ ý liệu có thể trông dựa vào Từ Hải và cũng có cái ý thử đo cái hiểu biết văn chương của Từ Hải). Từ Hải trả lời ở câu 2192: "Khiến người lại nhớ câu Bình Nguyên quân" tức là đọc nốt vế sau của câu thơ Cao Thích mà đáp lại, vừa thể hiện sự hiểu biết văn chương, vừa ví mình với Bình Nguyên quân, tức là Kiều có thể trông dựa, gửi gan ruột được.
Đó chính là cái thú ứng đối thơ, thú chơi chữ tao nhã của người xưa mà Nguyễn Du đã khéo léo phán ánh trong Truyện Kiều. Người Việt là một dân tôc yêu thơ, sành thơ và sính thơ. Bất kì người dân Việt nào dù mù chữ cũng thuộc dăm ba câu thơ Kiều. Và thơ Kiều trở thành những câu thơ điển hình để mọi người có thể tỏ ra là người yêu văn chương, thơ ca qua các sinh hoạt như lẩy Kiều, đố Kiều, đối Kiều và chua Kiều... không phân biệt kẻ bình dân với các bậc túc Nho.
+ Các nhà Nho, học giả, dịch giả, nhà văn, nhà thơ, các nhà khoa học là người Việt dường như ai cũng có thơ phú về Kiều, có các công trình lớn nhỏ hoặc các bài nghiên cứu về TK như một chứng chỉ nghề nghiệp trong trường đời. Những tên tuổi lớn có thể kể như: Kiều Oánh Mậu, Trương Vĩnh Ký, Chu Mạnh Trinh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Dương Quảng Hàm, Tản Đà, Đào Duy Anh, Nguyễn Bính, Tố Hữu... Và gần đây nhất là tác giả Phạm Đan Quế với 4 bằng kỷ lục nghiên cứu về Truyện Kiều.
+ Minh hoạ Truyện Kiều, Nguyễn Du làm nên tên tuổi các hoạ sĩ, nhà điêu khắc...
Tranh minh hoạ Truyện Kiều (tranh tác phẩm, tranh minh hoạ, tranh dân gian) nhiều thể loại được giới hoạ sĩ, các nhà điêu khắc khai thác tối đa. Có nhiều tranh dân gian, nhiều tranh quý hiếm khuyết danh (do không tìm được tác giả). Nhiều tranh minh hoạ đã làm nên tên tuổi các hoạ sĩ như Tạ Thúc Bình, Mạnh Quỳnh, Lê Lam, Tú Duyên, Mai Hoa, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Tô Ngọc Vân, Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ, Lưu Văn Sìn, Nguyễn Đỗ Cung... Đặc biệt tranh sơn dầu khổ lớn “Chàng Vương quen mặt ra chào / Hai kiều e lệ nép vào dưới hoa” của họa sĩ Lê Chánh được trưng bày ở phòng khách Dinh Độc Lập, nay là Hội trường Thống nhất Tp. HCM. Độc đáo hơn cả là bộ tranh lụa về Kiều được ra mắt năm 2011 của họa sĩ Ngọc Mai. Bà đã mất 12 năm để hoàn thành 28 bức tranh và đã xuất bản thành sách Tranh lụa Kiều (NXB Văn học).
Tượng Nguyễn Du đặt tại Trung tâm lưu niệm Nguyễn Du tại Tiên Điền, Hà Tĩnh đã trở thành hình ảnh kinh điển trong tâm trí mọi người trong và ngoài nước và đã được đưa vào con tem dịp kỉ niệm 250 năm năm sinh Nguyễn Du của nhà điêu khắc Lê Đình Bảo.
Tem về Nguyễn Du & Truyện Kiều cũng đã được Bưu chính Việt Nam phát hành vào năm 1965. Bộ tem đầu tiên là bộ tem Kỷ niệm 200 năm sinh Đại thi hào Nguyễn Du do hoạ sĩ Nguyễn Hiệp thiết kế, in tại nhà in Tiến Bộ, gồm 4 mẫu: 1 – Sông Lam, núi Hồng Lĩnh; 2- Khu lưu niệm Nguyễn Du; 3- Cảo thơm trước đèn; 4 – Kiều báo ân, báo oán.
Đến năm 2015, Quyết định bổ sung bộ tem “Kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du (1765 - 1820)” gồm 1 mẫu tem vào Chương trình phát hành tem bưu chính năm 2015 đã được Thứ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Thành Hưng ký ban hành ngày 21/7/2014. Quyết định nêu trên được Bộ TT&TT ban hành trên cơ sở xem xét đề xuất của Hội Kiều học Việt Nam. Hội Kiều học Việt Nam là đơn vị tư vấn (tôi - Trần Đình Tuấn là tư vấn chính cho nội dung) cho Bộ tem “Kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du (1765 - 1820)” phát hành 05/12/2015 gồm 01 mẫu tem và 01 blốc do hoạ sỹ Nguyễn Du (Tổng công ty Bưu điện Việt Nam) thiết kế với khuôn khổ tem 32 x 43 mm, blốc 90 x 90 mm.
+ Nghiên cứu Truyện Kiều, thực hiện các tác phẩm chủ đề Kiều thúc đẩy thương hiệu doanh nghiệp.
Các tổ chức xuất bản các nhà nước và tư nhân, các đoàn nghệ thuật biểu diễn, công ty sản xuất chương trình, các tổ chức đấu giá nghệ thuật ... rất chú trọng thực hiện các chương trình kinh doanh hoặc tổ chức sự kiện liên quan đến Truyện Kiều vì nó dường như đảm bảo chắc chắn lợi nhuận và là cơ hội quảng bá thương hiệu tốt.
3. Lẩy Kiều thường được các chính khách sử dụng để biểu đạt nỗi lòng, trách nhiệm hay thông điệp ngoại giao. Lẩy kiều đầy đủ tính năng của Slogan, Motto - một loại tài sản vô hình của doanh nghiệp, giúp các công ty củng cố, định vị thương hiệu và thể hiện rõ sự khác biệt.
Vì mỗi câu thơ Kiều có sức khả năng biểu đạt trọn vẹn một bối cảnh, một tâm trạng dưới dạng câu hoàn chỉnh nên nó có khả năng độc lập ngoài ngữ cảnh và hoà nhập vào bối cảnh mới. Do tính năng đó các chính khách thường lẩy Kiều nhằm gửi gắm nỗi lòng hay một thông điệp ngoại giao gây thiện cảm với hàng triệu người Việt.
Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lẩy Kiều nhiều nhất. Đến ngay trong Di chúc thiêng liêng, Bác Hồ căn dặn đồng chí, đồng bào: Còn non, còn nước, còn người/ Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay. Năm 2011, ông Nguyễn Phú Trọng kết thúc nhiệm kỳ Chủ tịch Quốc hội. Sau khi nhận bó hoa từ tân Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, ông Nguyễn Phú Trọng đã nán lại trên diễn đàn ít phút để chia sẻ cảm giác của mình 4 năm về trước, vào một hoàn cảnh tương tự, tức ngày ông chính thức nhận trọng trách Chủ tịch Quốc hội (năm 2017). Ông nhắc lại chuyện ông đã lẩy hai câu Kiều vào thời điểm đó là "Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn / Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay". Đó cũng là lời chia sẻ của vị nguyên Chủ tịch Quốc hội về trách nhiệm lớn lao trước đất nước, trước nhân dân mà ông phải đón nhận khi đảm đương vị trí quan trọng vào thời điểm đó.
Chính trị gia Mỹ cũng có truyền thống lẩy Kiều trong ngoại giao với Việt Nam.
Năm 1995 khi Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt đã tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai nước, gác lại quá khứ và mở ra một chương mới trong lịch sử hai nước. Tháng 11/2000, chuyến thăm đầu tiên tới Việt Nam trên cương vị Tổng thống Mỹ, ông Bill Clinton cũng đã lẩy Kiều trong tiệc chiêu đãi trọng thể do Chủ tịch nước Trần Đức Lương chủ trì: “Sen tàn cúc lại nở hoa / Sầu dài ngày ngắn, Đông đà sang Xuân” để chuyển tải thông điệp về phát triển tất yếu quan hệ Việt - Mỹ: Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai tươi sáng mà cả hai nước đều có trách nhiệm xây dựng.
Ông Joe Biden, Phó Tổng thống Mỹ, trong cuối phần phát biểu tại buổi tiệc tiếp ông TBT Nguyễn Phú Trọng ngày 7.7.2015, cũng đã Lẩy 2 câu Kiều: “Trời còn để có hôm nay / Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời” nhằm bày tỏ hy vọng vào tương lai tươi sáng của quan hệ song phương sau một giai đoạn lịch sử khó khăn.
Obama - Tổng thống Mỹ thăm Việt Nam tháng 5/2016, ông lẩy Kiều như một cam kết lòng tin trước hàng ngàn người ở Hà Nội: "Rằng trăm năm cũng từ đây / Của tin gọi một chút này làm ghi”.
Bên cạnh xu hướng các chính khách lẩy Kiều, các văn nghệ sĩ cũng thường đưa câu Kiều có giá trị như một slogan cho thông điệp trang Web cá nhân của mình.
Thực tế hiện nay chưa thấy có Slogan, Motto nổi tiếng của doanh nghiệp nào áp dụng các hình thức lẩy Kiều hoặc khai thác ý tưởng từ Truyện Kiều. Có lẽ, các doanh nhân chưa ý thức được mối liên hệ thơ Kiều với cấu trúc các Slogan, Motto, vì vậy vấn đề này cũng là nhiệm vụ của toạ đàm cần làm rõ.
Ở đây, tôi có thể đơn cử một vị dụ có thể khai thác Slogan hay Motto từ thơ Kiều. Trong Truyện Kiều, nói về vẻ đẹp tự nhiên, tuyệt sắc, Nguyễn Du thường dùng hai màu sắc “lục – hồng” để nói về vẻ đẹp con gái, phụ nữ nói riêng hoặc của tuổi trẻ nói chung. Điều đó có nghĩa là biểu tượng “lục – hồng” là cái đẹp kinh điển đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt được Nguyễn Du phản ánh cô đọng lại mà thôi. Có rất nhiều câu như: Câu 26: Hoa ghen thua thắm (đỏ, hồng), liễu hờn kém xanh; Câu 90: Nào người tiếc lục tham hồng là ai; Câu 1218: Dường chau nét nguyệt dường phai vẻ hồng; Câu 1305: Mụ càng tô lục chuốt hồng...
Các công ty mỹ phẩm, làm đẹp... đều có thể lựa chọn các mẫu câu trên đây để sử dụng cho Slogan, Motto ở dạng nguyên bản câu thơ hay sửa đổi như: Hoa ghen thua thắm (đỏ, hồng), liễu hờn kém xanh hoặc sửa đổi như: Ngày ngày tô lục chuốt hồng; Sáng tô lục, chiều chuốt hồng...
4. Khai thác ý tưởng từ Truyện Kiều, vận dung giá trị Truyện Kiều
+ Sơ lược giá trị Truyện Kiều
Nói đến giá trị của Truyện Kiều, không thể không nhắc đến câu nói nổi tiếng của Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn...”. Ông cho rằng: “Một nước không thể không có quốc hoa, Truyện Kiều là quốc hoa của ta; một nước không thể không có quốc túy, Truyện Kiều là quốc túy của ta; một nước không thể không có quốc hồn, Truyện Kiều là quốc hồn của ta. Truyện Kiều là cái « văn tự » của giống Việt Nam ta đã «trước bạ» với non sông đất nước này... Đấng quốc sĩ ấy là ai? Là Cụ Tiên Điền ta vậy. Thiên văn khế ấy là gì? Là quyển Truyện Kiều ta vậy.
Như vậy, Truyện Kiều kết tinh cái đẹp Việt (quốc hoa), mang đậm đà bản sắc dân tộc (quốc tuý), phản ánh tinh thần, sức sống của dân tộc (quốc hồn)... Ngày nay, nhiều người coi Truyện Kiều là cuốn kinh của tình thương, là kinh thánh của tâm hồn.
Thực tế, Truyện Kiều cũng đã bước vào vũ đài chính trị như là tiêu biểu cho nền văn hóa Việt Nam. Năm 1968 sau cuộc tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân, nhân sự kiện phía địch tìm thấy một cuốn Truyện Kiều cũ kỹ và xơ xác trong hành trang ra trận ở túi áo của tử thi một chiến sỹ trẻ của ta[1], tạp chí The Washingtonian của Mỹ số tháng 4 có đăng bài viết về Truyện Kiều dài 2 trang với dòng tít hấp dẫn “Một tài liệu ly kỳ vừa bắt được tiết lộ tinh thần của địch”. Trong bài viết có hình minh họa Tổng thống Johnson với lời chú thích “Giá như Tổng thống Johnson đã đọc Truyện Kiều thì chắc đã không phải lâm vào tình trạng rắc rối như ngày nay”.
Dạy Truyện Kiều ở Đại học De Anza bang California, Giáo sư John Swensson (thời chiến tranh là Đại tá Mỹ đóng quân ở Củ Chi năm 1966, ở Sài Gòn năm 1968, 1969) nói: “Muốn tìm hiểu con người Việt Nam thì hãy tìm hiểu Truyện Kiều. Có hiểu câu chuyện về sự chịu đựng đằng đẵng 15 năm trời, chịu đủ mọi nỗi đau của Thúy Kiều thì mới hiểu được sự kiên trì cùng sức chịu đựng ghê gớm của người Việt Nam, mới hiểu được tại sao du kích Củ Chi lại có thể đào được hệ thống địa đạo Củ Chi, sống ở dưới đó để rồi cuối cùng vươn lên giành thắng lợi. Tôi thấy ở Truyện Kiều một giá trị để hoàn thiện con người”.
Trong khi đó, Kuroda Yoshiko là nữ thi sĩ sinh tại Kyoto, Nhật bản dịch TK sang tiếng Nhật, bà cho rằng cốt lõi tốt đẹp của tinh thần Việt Nam, và cũng là của Nhật Bản được xây dựng trên những “Lời thề” và đó cũng là lý do bà chọn đặt tên cho Lời bạt cho bản dịch “Truyện Thúy Kiều” là “Thế giới của lời thề”. Bà xem xét “lời hứa” của Thúy Kiều với nhiều nhân vật khác nhau trong tác phẩm và xem việc không thể giữ lời thề nguyền đã chỉ phối như thế nào đến suy nghĩ, hành động, cuộc đời của từng nhân vật trong câu chuyện.
Chúng ta biết rằng, lời hứa, lời thề là nguyên tắc chi phối mọi quan hệ xã hội trong Truyện Kiều. Vì thế, lời hứa lời thề trở thành căn cứ cho luật pháp được thực thi: “Thề sao thì lại cứa sao gia hình”. Điều mà vẫn rất giá trị trong cuộc sông hiện đại hôm nay, đặc biệt với doanh nghiệp và doanh nhân.
Vài nét nhận xét trên cho chúng ta thấy những giá trị cốt lõi tinh thần mà chúng ta đã có qua giá trị của Truyện Kiều. Như vậy, Truyện Kiều có thể được coi như một cẩm nang văn hoá Việt để doanh nhân có thể vận dụng, xây dựng Văn hoá doanh nghiệp Việt cho mình. Mặt khác, cộng đồng hàng triệu người Việt yêu mến Truyện Kiều, Nguyễn Du một lần nữa trở thành lực lượng ủng hộ cho các doanh nghiệp biết khai thác và vận dụng giá trị Truyện Kiều.
+ Khai thác ý tưởng từ Truyện Kiều
Truyện Kiều không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật đơn thuần mà đã trở thành một “công cụ” để phục vụ cuộc sống. Vì vậy, việc làm sáng tỏ giá trị Truyện Kiều là công việc của quá khứ, hiện tại, tương lai và không có hồi kết.
Chúng tôi xin đơn cử một ví dụ thực tế, sinh động sau:
Lấy ý tưởng từ Truyện Kiều, khai thác ứng dụng giá trị Truyện Kiều vào cuộc sống một cách rõ ràng nhất phải kể đến việc thiết kế xây dựng chùa Quán Sứ (Hà Nội) của cố Kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn (1912-1990). Ông có nhiều công trình kiến trúc được lấy ý tưởng từ Truyện Kiều. Những công trình cụ thể như: Phòng thu thanh của Đài Tiếng nói Việt Nam ở phố Quán Sứ; nhà giải khát công viên Thống Nhất và đặc biệt là chùa Quán Sứ.
Chùa Quán Sứ được xây dựng vào thế kỷ 15. Năm 1934, Tổng hội Phật giáo Bắc Kỳ thành lập, chùa Quán Sứ được chọn làm trụ sở trung ương. Năm 1942 chùa đã được xây dựng lại theo bản thiết kế của hai kiến trúc sư Nguyễn Ngọc Ngoạn và Nguyễn Xuân Tùng do chính Tổ Vĩnh Nghiêm duyệt.
KTS Nguyễn Ngọc Ngoạn tâm sự: “Chùa thấp, dáng dấp, các chùa thông thường, cửu phẩm liên đài vươn lên cao... Chúng tôi nghiêng đầu, ngẹo cổ ngắm... Chúng tôi đến thực địa, đi bên này đường, sang bên kia phố của phần liên đài cao, cao quá, tầm nhìn quá gần lại còn làm chướng mắt chùa. Bỏ đi, chùa thấp, bình thường... không được. Làm ra sao? Chúng tôi băn khoăn, suy nghĩ...
"Chùa đâu trông thấy nẻo xa..." Tôi nghĩ tới câu thơ đó một cách ngẫu nhiên và đặt vấn đề phải làm sao cho trông thấy chùa từ đầu phố... Đưa chùa lên cao: lênh khênh, mất tỷ lệ, vẽ đi vẽ lại không đạt... "Sẵn Quan Âm Các vườn ta", không hiểu sao chữ "Các" nhắc tôi đến "Khuê Văn Các" ở Văn Miếu. Chúng tôi hình dung ngôi chùa hai tầng...
Táo bạo! Lạ kiểu! Quái gở! Đó là những "tiếng bấc, tiếng chì", chúng tôi kiên trì chịu đựng. Như một gáo nước lạnh dội vào: quan điểm của tôn giáo buộc Phật phải "tọa liền với đất...". Ở đây, chúng tôi vấp phải tất cả những cái gì đã ăn sâu vào con người, đã quen thuộc với các ngôi chùa thấp lè tè với chín, mười một gian chi đó... với ấn tượng hai tầng là các nhà Tây mới được nhập cảng...
Tôi chùng tay... Kiến trúc sư Nguyễn Xuân Tùng động viên "phải kiên trì" và chúng tôi mải miết tiếp tục nghiên cứu... Cuối cùng phương án được chấp nhận. Những ấn tượng ban đầu hình như tiêu tan hết và chùa Quán Sứ hai tầng đã được xây dựng... Chúng tôi những người thiết kế - tự nhủ rằng không biết có quá đáng không - đã dám nghĩ, dám làm, đã viết một dòng nhỏ trong trang sử kiến trúc tôn giáo Việt Nam.
Đánh giá đúng mức chùa Quán Sứ phải đặt chùa trong bối cảnh lịch sử của thời đại, trong giai đoạn bao trùm bởi một nền văn hóa nô dịch, trong giai đoạn mà số kiến trúc sư đầu tiên chỉ là đếm trên đầu ngón tay. Còn nó chưa hoàn toàn Việt Nam, nó còn... và còn cái này, cái khác... Thì đó lại là chuyện khác”.
Thay lời kết!
Giá trị Truyện Kiều có thể được nhận định cụ thể, sâu sắc hơn ở từng lĩnh vực cuộc sống tuỳ thuộc vào sự tìm hiểu của các doanh nhân trong từng lĩnh vực đặc thù của doanh nghiệp. Trong bối cảnh các doanh nghiệp cần khẳng định Văn hoá doanh nghiệp Việt Nam thì việc tìm ý tưởng sang tạo từ Truyện Kiều, vận dụng các giá trị Truyện Kiều là con đường ngắn nhất, đúng đắn nhất và có thể chinh phục hàng triệu người Việt vốn yêu mến Truyện Kiều, yêu mến Nguyễn Du cũng như tạo nên sự khác biệt, tạo nên giá trị Việt để có thể khẳng định mình trong thế giới phẳng, trong xu hướng kinh tế toàn cầu hoá và có thể xây dựng Xã hội tri thức.
Chúng tôi hy vọng rằng, Hội Kiều học sẽ là đơn vị tư vấn tốt cho các doanh nhân muốn xây dựng Văn hoá doanh nghiệp Việt Nam từ những giá trị Truyện Kiều.


Tài liệu tham khảo:
- Truyện Kiều, Khảo – Chú – Bình, NXB Lao Động, TS Phan Tử Phùng chủ biên, Phan Văn Các, Thế Anh, Nguyễn Khắc Bảo, Trần Đình Tuấn.
- Truyện Kiều bản UNESCO – Nôm, Quốc ngữ đối chiếu. NXB Lao Động, TS Phan Tử Phùng chủ biên, Phan Văn Các, Thế Anh, Nguyễn Khắc Bảo, Trần Đình Tuấn.
- Tìm hiểu kiến trúc qua Truyện Kiều, KTS Nguyễn Ngọc Ngoạn, Hội Kiến trúc sư xuất bản.
- Và một số bài báo, tạp chí khác....




[1]. “Dẫu súng đạn nặng đường ra hoả tuyến / Đi đường dài, em giữ Truyện Kiều theo” (Gửi Kiều cho em. Thơ Chế Lan Viên)      

SUY NGHĨ VỀ CÂU THƠ “THÚC SINH QUEN THÓI BỐC RỜI, TRĂM NGHÌN ĐỔ MỘT TRẬN CƯỜI NHƯ KHÔNG!

LTS: Nhân Kỷ niệm 197 năm này mất Đại thi hào Nguyễn Du (10-8 Đinh Dậu) và 13 năm ngày doanh nhân Việt Nam 13-10, Hội Kiều học Việt Nam đã phối hợp với Công ty Hanvico tổ chức Hội thảo “Doanh nhân với Truyện Kiều và Truyện Kiều với doanh nhân”.
Tham dự Hội thảo có các Giáo sư: Phong Lê, Nguyễn Đình Chú, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, và trên 100 đại biểu gồm các nhà nghiên cứu, các nhà thơ, các doanh nhân trong khắp cả nước. Hội thảo đã diễn ra sôi nổi và đầy thú vị về việc vận dụng linh hoạt và thiết thực các giá trị Truyện Kiều vào quá trình xây dựng và phát triển doanh nghiệp cũng như xây dựng văn hóa doanh nhân, doanh nghiệp. Hơn 30 tham luận đã được gửi đến Hội thảo. https://hoikieuhochatinh.blogspot.com sẽ lần lượt giới thiệu các tham luận để bạn đọc xa gần tham khảo.

TS Nguyễn Thế Kỷ, UVTW Đảng, Chủ tịch Hội đồng Lý luận, Phê bình VNNT Trung ương, phát biểu tại Hội thảo.
                                                                                                                                                                   Ảnh TVS
                                   Tham luận của Nhà nghiên cứu, dịch giả Lê Đăng Hoan  
       
Thúc sinh là nhân vật được nhiều người khen chê, nhất là qua hành vi “ Trăm ngàn đổ một trận cười như không” của anh ta.
Xét cho cùng đó là một hành vi rất nhân văn. Tôi không nói nhân văn như một nhà Kiều học nói, là để cứu Kiều, có lẽ việc cứu Kiều không xuất phát từ tính nhân văn của Thúc Sinh, mà đó là cứu Kiều về làm vợ.
Nhân văn ở chỗ nó rất con người. Một con người có ham muốn, biết giá trị nào để sử dụng đồng tiền vào đâu cho đúng.
Tôi không bênh vực những đại gia bây giờ, một đêm cùng chân dài có thể chi hàng chục nghìn đô, hay vì một hợp đồng quái quỷ với môt người đẹp mà chi đến hàng chục tỷ đồng. Nhưng tất cả đều có lý của nó.   
Hồi tôi làm việc với một giám đốc người nước ngoài, một hôm đã khuya, ông gọi điện cho tôi hỏi “Công nhân không đồng ý mức lương 36USĐ/tháng, tôi định tăng lên 36 đô rưỡi được không?”(Hồi ấy lương tối thiểu của công nhân trong doanh nghiệp nước ngoài chỉ 35USĐ/tháng ). Tôi nói rằng “Tăng gì mà keo kiệt thế, tăng lên 40 USD/tháng đi”, ông ta dứt khoát không đồng ý, chỉ tăng thế thôi.
Rồi một hôm đi hát Karaoke với ông ta, ngồi bên một cô gái khoảng 1 giờ, lúc về ông ta “bo” cho cô ta 100USD. Tôi ngạc nhiên hỏi “ Sao lại thế, một tiếng đồng hồ, vừa được ăn, uống hát hò, ngồi không làm gì, ông lại cho nhiều thế, mà lương công nhân thì ông kẹt xỉ mấy xu lẻ?”. Ông cười nhìn tôi trả lời rất hóm hỉnh “ Con người mà ông? Sự đời là thế, cô ta xứng được thưởng như thế”.
Như vậy ở đây có hai vấn đề cần được làm rõ:
1/ Những người làm ra tiền, họ có quyền được hưởng thụ văn hóa mà họ ưa thích và họ không cò kè về sự hào phóng, đó là sự hào phóng tự nguyện,
2/ Thế thì tại sao họ lại so đo, như là keo kiệt khi trả công cho người lao động, hay cò kè từng đồng khi giao dịch buôn bán, có phải trình độ văn hóa của họ kém hay không?  
Ở đây có lẽ nên lí giải vấn đề bằng cách nhìn về hưởng thụ văn hóa.
Văn hóa là “Tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình lịch sử”.  Thưởng thức văn hóa nghệ thuật là một nhu cầu thiết yếu của con người. Cuộc sống vật chất, kinh tế càng phát triển thì nhu cầu hưởng thụ văn hóa càng cao.
Ông Hà Văn Thạch, UVBTV, Trưởng ban Tổ chức Tỉnh ủy Hà Tĩnh và các Giáo sư:Nguyễn Đình Chú, Trần Đình Sử, nhà thư pháp Thế Anh chụp ảnh lưu niệm với các đại biểu.
                                                                                                                                        Ảnh: TĐT

  Trong thưởng thức văn hóa nghệ thuật thì sắc đẹp là một nội dung không thể thiếu, nếu không nói là nội dung chính của thưởng thức văn hóa nghệ thuật. Thế thì, con người sinh ra, có quyền được thưởng thức những cái đó. Trong tất cả cái đẹp, cái đẹp của con người, của người phụ nữ, mà tạo hóa ban tặng cho họ là đáng để con người chiêm ngưỡng và hâm mộ nhất. Trong các hoạt động của con người thì hoạt động tình dục là hoạt động có ý nghĩa nhất và có tính văn hóa, nhân văn cao nhất.
Thế thì để hưởng thụ được cái hạnh phúc nhất đó, ai lại đi “cò kè”.
(“Cò kè” trong tuyện Kiều, được nói nhiều nhất khi Mã Giàm Sinh mua Kiều. Bao nhiêu lời phê bình cho hành động “Cò kè bớt một thêm hai” của Mã Giám Sinh là vô nhân đạo. Nhưng thực ra “cò kè” đâu phải chỉ có Mã Giám Sinh, vì anh ta cũng chỉ là người đi buôn. Ta có thể phê phán hành động buôn người là vô nhân đạo, nhưng không thể phê phán sự “cò kè” của người đi buôn bán được. Thử hỏi trong tất cả chúng ta, kể từ những doanh nghiệp to, đến các tiểu thương buốn bán nhỏ, khi mua khi bán một vật phẩm nào đó, có ai không “cò kè”!. Thế thì “cò kè” là hiện tượng phổ biến của thương nghiệp. Trong một xã hội mà việc buôn người không bị cấm, thì việc “cò kè” khi mua người cũng là một việc hết sức bình thường.)
Trong cả đoạn nói về quan hệ qua lại của Thúc Sinh và nàng Kiều, không hề có chữ “cò kè”, nói bao nhiêu trả bấy nhiêu, nên mới bị lên án là “bốc rời”. Nhưng cái “bốc rời” của Thúc Sinh là “có lí”. Một nàng Kiều xinh đẹp như thế, “trong ngọc trắng ngà…”như “tòa thiên nhiên”, rồi những cuộc giao hoan “miêt mài” như thế, rồi cái tài, cái thông minh, biện luận tuyệt vời đầy trí tuệ khi Thúc Sinh muốn lấy nàng làm vợ, thì ai lại đi “cò kè” khi được thưởng thức, hay được gần gũi với giá trị văn hóa đỉnh cao, đáng trân trọng như thế.
Cho nên khi có tiền (ngoại trừ đồng tiền bất chính), người ta có quyền được hưởng những gì đẹp nhất do trời ban tặng mà họ không phải đắn đo đắt rẻ.
Vậy thì những đại gia và các nữ chân dài hiện đại, họ có đáng phải chịu sự ghen ghét của xã hội hay không, nếu sự có đi có lại đó được hiểu là một sự hưởng thụ chân chính bằng sức lao động chân chính, bằng sự trao gửi chân tình.
Với cách nhìn ấy, thì “ Trăm nghìn đổ một trận cười..” có lẽ còn rẻ hơn các khách làng chơi đại gia hiện đại!
Còn câu hỏi thứ hai, vấn đề công lao động và lương bổng, việc buôn bán vật phẩm hàng ngày lại là một lĩnh vực hoàn toàn khác.
Tôi không tin rằng trong cái “ ngôi hàng Lâm Tri” của Thúc Sinh, anh ta cũng “bốc rời”. Có lẽ hoàn toàn không. Nếu bốc rời cả trong công việc buôn bán thì tiền đâu mà “bốc rời” nơi hưởng thụ.
Cho nên ở đó anh ta cũng “cò kè”, mà có khi phải “giả dối” đôi chút, vì dù sao cũng là con buôn.
Tôi không biết có doanh nghiệp nào đang ngồi ở đây, hoàn toàn nói thật khi buôn bán, trao đổi hàng hóa hay không? Tôi không tin là không có, nhưng hiếm lắm.
Tôi có dịch một bài thơ của nhà thơ nổi tiếng Hàn Quốc, Ko Un,  nói về những “kẻ keo kiệt bậc nhất” đã làm nên nền thương ngiệp Hàn Quốc. Đó là anh chàng đi bán nước tiểu thì cho thêm nước lã, còn người đi mua nước tiểu thì trước khi mua hàng còn lấy ngón tay chấm vào nước tiểu rồi mút thử xem có lẫn nước lã vào hay không.
Sau khi nói rằng đó là “những kẻ keo kiết nhất”, đồng thời tác giả cũng khẳng định họ chính là những người mở đầu cho nền thương nghiệp Triều Tiên lúc bấy giờ.
Sự thật của thương nghiệp là thế! Ngoại trừ những kẻ vô lương tâm đem chất độc, sản xuất chất giả trong buôn bán làm hại cuộc sống con người và rối loạn xã hội.
Còn khi người ta sản xuất sản phẩm thì đồng lương là phần quan trọng trong giá thành sản phẩm, quyết định lời lỗ của sản xuất, cho nên phải “cò kè” là vì thế. Trong buôn bán không biết các nhà buôn có bao giờ nói đúng giá mua vào, chi phí giá thành một sản phẩm hay không. Nếu có thì số liệu đó có một chút sai số (mà nhà quản lý hoặc người mua có thể chấp nhận được!) nào không!, vì đó là số liệu trực tiếp liên quan đến thuế má, lời lỗ. Đó mới là nhà buôn, thương nghiệp. Điều này đòi hỏi các nhà quản lí phải nhạy bén và sát thực tiễn cuộc sống.
Thúc Sinh là một nhà buôn, lại lấy được con một nhà “họ Hoạn danh gia”, để không phải mang tiếng ăn bám nhà vợ, đã đi xa tận Lâm Tri để mở cửa hàng buôn bán, thì không thể nói anh ta không biết gì về những nghề lẻ của thương nhân.
Nói tóm lại, trong câu thơ “ Thức Sinh quen thói bố rời,
                                          Trăm nghìn đổ một trân cười như không”
Nguyễn Du không có ý phê phán cái anh chàng Thúc Sinh kia, vì hơn ai hết Nguyễn Du biết rằng vì một nụ cười của phụ nữ mà vua còn mất nước nữa là chỉ mấy đồng tiền, nhưng ông muốn đi sâu vào cái lòng tham lam của Tú Bà, lợi dụng tính “bốc rời “ ấy của Thúc Sinh mà trục lợi.
Trong xã hội hiện nay, biết bao hiện tượng, hành động tốt bị lợi dụng. Kinh tế thị trường cho chúng ta bài học rằng:
    Có tài mà cậy chi tài,
 Chữ tài liền với chữ tai một vần.
    Đã mang lấy nghiệp vào thân,
 Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa.
    Thiện căn ở tại lòng ta,
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
 Mong các doanh nghiệp Việt Nam biết nắm lấy cơ hội để đầu tư đúng mục đích, biết sử dụng đồng tiền đúng theo giá trị của chính nó, để khi “bốc rời” cũng có lý, khi “cò kè” cũng không bị coi là keo kiết.
L.Đ.H

DÂNG HƯƠNG TƯỞNG NIỆM 197 NĂM NGÀY MẤT ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU VÀ PHÁT THẺ HỘI VIÊN HỘI KIỀU HỌC VIỆT NAM

        
Lễ trao thẻ Hội viên. Ảnh TĐC
          Sáng 29/9/2017 (10/8 Đinh Dậu), trong không gian văn hóa của Di tích cấp quốc gia đặc biệt, Khu lưu niệm Danh nhân văn hóa Thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du, Chi hội Hội kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh đã tổ chức Lễ dâng hương tưởng  niệm 197 năm ngày mất đại thi hào Nguyễn du và Trao thẻ Hội viên.
          Đến dự buổi lễ có các đồng chí chí Hà Văn Thạch, UVBTV, Trưởng ban tổ chức tỉnh ủy; Đặng Quốc Vinh, UVBTV, Phó Chủ tịch UBND tỉnh; Võ Hồng Hải, TUV, Phó Chủ tịch HĐND tỉnh, Phó Chủ tịch Hội Kiều học Việt Nam; Bùi Xuân Thập, TUV, Giám đốc Sở VHTT&DL, Ủy viên Ban thường vụ Hội Kiều học Việt Nam, lãnh đạo Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, đại diện dòng họ Nguyễn Tiên Điền và gần 60 hội viên Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh
Hội viên Hội Kiều học Hà Tĩnh dâng hương tại Khu mộ Đại thi hào Nguyễn Du sáng 29/9/2017. Ảnh TĐC
          Sau lễ dâng hương tưởng niệm lần thứ 197 ngày mất Danh nhân văn hóa Thế giới - Đại thi hào Nguyễn Du tại Khu mộ và Nhà thờ, là Lễ trao nhận phiên bản mộc bản về Đại thi hào Nguyễn Du trong kho tàng Mộc bản triều Nguyễn của Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước cho ngành Văn hóa Hà Tĩnh. Tiếp đó là Lễ phát thẻ Hội viên Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh và sinh hoạt hội năm 2017.
Ông Đặng Quốc Vinh, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Hà Tĩnh phát biểu tại buổi lễ. Ảnh TVS
          Tại buổi lễ, ông Thái Văn Sinh, Trưởng Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh đã báo cáo kết quả hoạt động của Ban chấp hành Hội Kiều học Việt Nam sau Đại hội II và hoạt động của Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh sau một năm ra mắt và chương trình hoạt động thời gian tới.
Ngày 03/11/2011, Hội Kiều học Việt Nam tiến hành Đại hội thành lập – hay còn gọi là đại hội lần thứ nhất sau hơn 3 năm tiến hành vận động với 180 hội viên  (trên tổng số gần 400 hội viên trong toàn quốc  và 40 khách mời tham dự. Ngày 13/01/2017  Đại hội nhiệm kỳ II (2017 - 2022) Hội Kiều học Việt Nam đã được tổ chức Đại hội có 205 hội viên trên tổng số  600 Hội viên trong cả nước và  45 khách mời tham dự. Đoàn Hà Tĩnh có 20 hội viên tham dự. Đại hội bầu GS. Phong Lê làm Chủ tịch. Ban chấp hành Hội có 33 ủy viên, trong đó Hà Tĩnh có 3 ủy viên. gồm: Ông Võ Hồng Hải, Ông Bùi Xuân Thập và Ông Thái Văn Sinh. Trong 4 phó chủ tịch: Hà Tĩnh có 1 PCT là ông Võ Hồng Hải. Trong  11 ủy viên thường vụ thì Hà Tĩnh có 2: Ông Võ Hồng Hải, Ông Bùi Xuân Thập. Đại hội nhất trí thông qua Điều lệ Hội nhiệm kỳ II với 8 Chương, 26 Điều với tiêu chí: tuyên truyền, quảng bá, nghiên cứu, bảo tồn và phát huy các giá trị di sản của Nguyễn Du và Truyện Kiều. Hội có 1 Tạp chí có tên là “Trăm năm trong cõi Truyện Kiều” và 1 Website có tên miền http://kieuhoc.com/.
Trưởng, phó Văn phòng đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh chụp ảnh lưu niệm với lãnh đạo Hội Kiều học Việt Nam và lãnh đạo tỉnh. Ảnh: TĐC
Văn phòng Đại diện hội kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh dươc thành lập ngày 01 tháng 6 năm 2013 theo Quyết định số 91/QĐ – HKHVN của Chủ tịch Điều lệ Hội Kiều học Việt Nam có 16 hội viên do ông Phạm Quang Ái làm Trưởng Văn phòng.
Sau 3 năm hoạt động, tháng 8/2016 Hội kiều học Việt Nam bổ nhiệm nhân sự mới gồm: Ông Thái Văn Sinh, TBT Tạp Văn hóa Hà Tĩnh làm Trưởng Văn phòng; Ông Nguyễn Ban, Chi hội trưởng Chi hội Văn học Nghệ thuật huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Phó Trưởng Văn phòng; Ông Nguyễn Tùng Lĩnh, Trưởng phòng Di sản Sở VHTTDL Hà Tĩnh làm Phó Trưởng Văn phòng. Ngày 9/9/2016, Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh tổ chức ra mắt sau 3 năm thành lập
          Sau 1 năm khi kiện toàn Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh tổ chức ra mắt đã tổ chức được 5 hoạt động lớn:
1. Về phát triền hội viên: từ 16 hội viên đã phát triển lên 63 hội viên và xây dựng được hồ sơ hội viên và làm thẻ cho hội viên.
2. Chuẩn bị nội dung, kế hoạch và tham gia tổ chức giỗ lần thứ 196 năm Đại thi hào Nguyễn Du vào 10/8 năm Bính Thân 2016.
3. Tham gia chuẩn bị Đại hội II gồm tài liệu và vận đông tài chính.
4. Xuất bản tập sách “Nguyễn Du Truyện Kiều với quê hương Hà Tĩnh”
5. Tổ chức Lễ dâng hương tưởng  niệm 197 năm ngày mất đại thi hào Nguyễn du và Trao thẻ Hội viên.
Từ nay đến 2018, Văn phòng Đại diện Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh sẽ triển khai 6 đầu việc việc chính như sau:
1. Phát triển hội viên và tổ chức các phân chi hội viên theo khu vực.
2.Tổ chức sinh hoạt 3 tháng 1 lần
3.Xây dựng quỹ Kiều học Hà Tĩnh
4.Xuất bản 01 cuốn sách về kiều học
5.Làm Website  Hội Kiều học Việt Nam tại Hà Tĩnh
6.Tổ chức 01 chuyến dã ngoại cho Hội viên thăm những nơi Nguyễn Du từng sống và làm việc ở Huế và Quảng Bình./.





"CUNG ĐÀN THÚY KIỀU", MỘT CA KHÚC ĐẶC SẮC



LTS: Một ca khúc kết hợp nhuần nhuyễn hơi thở của ca trù cổ xưa và phong cách đương đại, kết hợp nhuần nhuyễn giữa đời thường và sân khấu âm nhạc, giữa ca sĩ và nhạc sĩ . Theo Triết học thì đó là "sự thống nhất của 2 mặt đối lập" hay nói cách khác là sự kết hợp nhuần nhuyễn 2 mặt đối lập. Xin trân trong giới thiệu với độc giả nhạc phẩm này của Ngọc Thịnh ( Bản MP3).


THƯ NGỎ

Kính thưa quý vị!      Nguyễn Du (1765-1820) là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông ...