NGUYỄN DU, NGƯỜI PHỔ THÔNG HÓA NGÔN NGỮ NGHỆ TĨNH TRONG TRUYỆN KIỀU


 NGUYỄN VĂN ẤN 

Mỗi nước trên thế giới đều có ngôn ngữ riêng của đất nước mình. Trong mỗi nước, đều có ngôn ngữ chung, gọi là ngôn ngữ phổ thông. Đó là ngôn ngữ trong các văn bản hành chính, văn bản pháp luật của Nhà nước; là ngôn ngữ giao dịch giữa các cơ quan chính quyền, giữa cơ quan chính quyền với công dân, giữa công dân với công dân trong phạm vi hành chính….

Tuy nhiên, mỗi đất nước lại có nhiều vùng miền khác nhau, nên ngoài ngôn ngữ phổ thông, mỗi vùng miền lại có một số từ khác nhau cùng chỉ một sự vật, gọi là ngôn ngữ địa phương (còn gọi là tiếng địa phương).

Ví dụ: Người đàn ông sinh ra mình, tiếng Việt phổ thông gọi là cha, bố, nhưng còn gọi là thầy (Thanh Hóa, Thái Bình), ba, tía (Nam Bộ), bọ (Quảng Bình)… Người phụ nữ sinh ra mình, tiếng Việt phổ thông là mẹ, nhưng còn gọi là u (Ninh Bình), bầm (Phú Thọ), mụ (Quảng Bình), mạ (Thừa Thiên), (Nam Bộ).

Tiếng địa phương không chỉ làm giàu thêm cho kho tàng ngôn ngữ của đất nước mà đôi khi nó còn là dấu hiệu nhận biết người của vùng miền nào đó. Ví dụ: Khi một người hỏi : - Anh đi mô rứa? (Anh đi đâu đấy?), thì chắc chắn anh ta là người miền Trung. Nếu một người nói: - Cho tôi xin mánh nác, (Cho tôi xin miếng nước), chắc chắn anh ta là người Nghệ Tĩnh…

Tiếng địa phương của vùng nào còn là niềm tự hào của vùng ấy. Cha ông ta có câu: “Chửi cha không bằng pha tiếng”! để lên án những kẻ nhạo báng tiếng địa phương của một vùng miền nào đấy. Từ xưa tiếng địa phương được dùng nhiều trong văn học dân gian, văn học truyền miệng. Còn những nhà văn, nhà thơ, được học hành có chữ nghĩa đều dùng ngôn ngữ phổ thông trong các sáng tác của mình,và tự hào rằng tác phẩm của họ thuộc dòng văn chương bác học.

Ở Việt Nam, vào thế kỷ thứ 18, có một tác giả không tuân theo cái khuôn vàng thước ngọc ấy, đó là Đại thi hào Nguyễn Du – Danh nhân văn hóa Thế giới.

Trước hết Nguyễn Du, xuất thân từ một gia đình danh gia vọng tộc, được ăn lộc nhà vua, được học dưới mái trường của nhà vua,tinh thông Hán học – một thứ ngôn ngữ Hàn lâm thời bấy giờ, nhưng ông đã viết Truyện Kiều bằng chữ Nôm, một thứ Quốc ngữ thời ấy. Từ bỏ thứ ngôn ngữ bác học, dùng thứ ngôn ngữ bình dân của dân tộc để sáng tác Truyện Kiều chứng tỏ Nguyễn Du có lòng yêu nước và tự hào dân tộc cao độ; ông muốn đưa ngôn ngữ dân tộc Việt Nam lên tầm cao mới, để sánh vai cùng ngôn ngữ của các cường quốc năm châu,và đặc biệt là nước láng giềng phương Bắc- một đất nước đã đô hộ nước ta hàng ngàn năm, và thời nào cũng vậy, luôn luôn muốn thôn tính và đồng hóa dân tộc Việt.

Không những thế, Nguyễn Du còn mạnh dạn đưa tiếng địa phương Nghệ Tĩnh vào Truyện Kiều của ông. Là bậc thầy về sử dụng ngôn từ, Nguyễn Du đã khéo léo mang từ ngữ địa phương, tiếng nói của miền quê vào kiệt tác Truyện Kiều, tạo nên sự giản dị hài hòa mộc mạc. Trong Truyện Kiều, số lượng từ địa phương Nghệ Tĩnh được Nguyễn Du đưa vào không nhiều nhưng nó lại có khả năng biểu đạt nội dung và nghệ thuật cao. Từ địa phương được dùng nhiều nhất trong Truyện Kiều là từ chi (63 lần) tương ứng với từ trong tiếng Việt phổ thông.

Chúng ta hãy xem Nguyễn Du dùng từ chi tài tình đến thế nào?

1/ Trong Truyện Kiều, tác giả đã dùng từ chi với ý nghĩa câu hỏi (nghi vấn) thông thường, như câu:

Cớ chi ngồi nhẫn tàn canh

Tơ duyên còn mắc mối tình chi đây

(Câu 717-718: Tại sao ngồi sầu não suốt năm canh? Phải chăng còn vấn vương tình ái với người nào?), hoặc là: Khi Thúy Kiều lần đầu tiên trông thấy mụ Tú Bà to béo, mập mạp, đã tự lục vấn mình.

Nhác trông nhờn nhợt màu da,

Ăn chi (?) cao lớn đẫy đà làm sao

(Câu 823-824: Người đàn bà ấy ăn những món gì mà cao lớn, phì nộn như thế?)

2/ Trong Truyện Kiều có khi Nguyễn Du dùng từ chi để nói lên sự oán trách của nhân vật đối với một thế lực siêu nhiên nào đó.

Khi Thúy Kiều nghe kể về cuộc đời tài hoa bạc mệnh của Đạm Tiên, nàng đã thốt lên:

Phũ phàng chi bấy hóa công

Ngày xuân mòn mỏi má hồng phôi pha. (câu 85 – 86)

Lúc được tin Kim Trọng phải về quê ở Liêu Dương chịu tang chú ruột, Thúy Kiều đã cất lên lời ai oán rằng:

Ông Tơ ghét bỏ chi nhau,

Chưa vui sum họp đã sầu chia phôi. (câu 449-450)

3/ Với Truyện Kiều của Nguyễn Du, từ chi còn được sử dụng để chỉ cảm xúc, tâm trạng của nhân vật.

Trong buổi sáng mùa Xuân đi tảo mộ, được hồn Đạm Tiên, báo mộng, cho dù Hồn mộng biết đúng không, nhưng Thúy Kiều vẫn tỏ ra tiếc nuối:

Người đâu gặp gỡ làm chi.

Trăm năm biết có duyên gì hay không? (câu 181-182).

Khi bị Mã Giám Sinh cướp đi “đời con gái” của mình, Thúy Kiều đã đau khổ, coi cuộc đời nàng đã kết thúc:

Thôi còn chi nữa mà mong,

Đời người, thôi thế là xong một đời (câu 855-856).

Khi từ chi được thêm các tiếp đầu ngữ như: “vẻ chi”, “sá chi”, “làm chi” được tác giả Truyện Kiều dùng nhiều lần đã làm tăng thêm hiệu ứng của từ, nó chỉ ra tâm trạng dằn vặt, sự đấu tranh nội tâm của nhân vật.

Vẻ chi một đóa yêu đào,

Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh, (câu 553-554) .

Chú ý rằng chữ chi ở câu 554 lại có nghĩa là “không”: Chi dám cũng có nghĩa là đâu dám, không dám. Rồi thì :

“Vẻ chi một mảnh hồng nhan,

Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành. ( Câu 669-670 )

“Vẻ chi chút phận bèo mây,

Làm cho bể ái khi đầy khi vơi. ( Câu 1343-1344 ).

4/ Từ chi được dùng ở cuối câu, có ý nghĩa như một mệnh lệnh. Khi Thúy Kiều đàn những khúc nhạc buồn làm cho Thúc Sinh rầu rĩ đến rơi nước mắt, Hoạn Thư “lại thét lấy nàng: Cuộc vui gảy khúc đoạn trường ấy chi!.

Còn cái buổi tối, chàng Thúc Sinh đa tình, tìm mọi lời văn hoa tán tỉnh, thì Thúy Kiều đã ngắt lời Thúc Sinh rằng:

“Chúa xuân đành đã có nơi,

Ngắn ngày thôi chớ dài lời làm chi”!. (câu 1327 - 1328) Có khi từ chi được dùng để chỉ sự khinh bỉ , ví như:

“Tuồng chi là giống hôi tanh,

Thân ngàn vàng để ô danh má hồng” (câu 853 - 854).

Hoặc khi biết Thúc sinh dan díu với Thúy Kiều, nhưng lại dấu dấu diếm diếm, thì Hoạn Thư đã tỏ thái độ:

Lại còn bưng bít dấu quanh,

Làm chi những thói trẻ ranh nực cười. (câu 1543 - 1544)

5/ Nguyễn Du có lúc đã dùng từ chi để chỉ sự phẫn nộ của Thúy Kiều đối với xã hội đương thời:

Chém cha cái số hoa đào,

Gỡ ra, rồi lại buộc vào như chơi. Nghĩ đời mà chán cho đời

Tài tình chi lắm cho trời đất ghen. (câu 2151 – 2154 )

6/ Từ chi được dùng để mô tả sự đắn đo lựa chọn hành động của nhân vật: Nghĩ rằng ngứa ghẻ hờn ghen,

Xấu chàng, mà có ai khen chi mình (câu 1609 - 1610) Dại chi chẳng giữ lấy nền,

Hay chi mà rước tiếng ghen về mình. (câu 1541-1542).

7/Từ chi cũng được dùng để chỉ sự quyết tâm của nhân vật: Đã gần chi có điều xa,

Một lời đã quyết ,phong ba cũng liều. (câu 1365 - 1366), hoặc: Lượng trên quyết chẳng thương tình,

Bạc đen thôi có tiếc mình làm chi. (câu 1461 - 1642).

8/ Từ chi có khi được dùng như một lời khuyên nhủ, như trong câu: Làm chi tội báo oan gia,

Thiệt mình mà hại đến ta hay gì. (câu 813 - 814)

Rõ ràng Nguyễn Du đã sử dụng nhuần nhuyễn từ chi và ông đã xóa tan sự cách biệt giữa ngôn ngữ Nghệ Tĩnh và ngôn ngữ phổ thông.

Tóm lại với tài sử dụng ngôn ngữ, Nguyễn Du đã dùng từ chi trong nhiều văn cảnh khác nhau, để biểu thị những ý nghĩa khác nhau, phù hợp với từng hoàn cảnh của nhân vật. Và từ chi một từ địa phương Nghệ Tĩnh đã được phổ thông hóa, nghĩa là bất kỳ người dân ở vùng, miền nào của nước Việt Nam đều hiểu được ý nghĩa của nó trong từng văn cảnh.

Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du còn dùng một số từ địa phương Nghệ Tĩnh như ả, mụ, nghỉ. Từ chỉ những người con gái mới lớn, cha ông ta có câu: Tại anh ,tại ả. Tại cả đôi bên.

Có lúc Nguyễn Du dùng từ để chỉ sự trân trọng đối với nhân vật, như: Đầu lòng hai tố nga,

Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân. (câu 15 - 16 ), hay câu : Dâng thư đã thẹn nàng Oanh,

Lại thua Lý bán mình hay sao? (câu 671 - 672 )

Nhưng từ , còn được Nguyễn Du sử dụng để chỉ sự khinh bỉ một nhân vật nào đó, chẳng hạn như câu:

Bên thì mấy mày ngài,

Bên thì ngồi bốn năm người làng chơi. (câu 927 - 928).

Nguyễn Du còn đưa từ mụ vào tác phẩm Truyện Kiều. Tiếng Nghệ Tĩnh, từ mụ thường được dùng để chỉ những phụ nữ lớn tuổi đã có chồng con đề huề. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du với từ mụ khi thì dùng để mô tả một người phụ nữ bình thường, như câu:

Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh (câu 623 - 624 )

Cũng có khi từ mụ được dùng để mô tả một phụ nữ với sự kính nể, tôn trọng nhân vật, như câu:

Quản gia có một mụ nào,

Thấy người thấy nết ra vào mà thương. (câu 1747 - 1748 )hoặc như câu:

Mụ quản gia, vải Giác Duyên,

Cũng sai lệnh tiễn đưa tin rước mời (câu 2305 - 2306 )

Tuy nhiên từ mụ cũng được dùng để mô tả một nhân vật phản diện với sự khinh bỉ như câu:

Lầu xanh có mụ Tú Bà,

Làng chơi đã trở về già hết duyên (câu 809 - 810 ), hay câu:

Mụ già hoặc có điều gì,

Liều công mất một buổi quỳ mà thôi. (Câu 841 - 842 ).

Để mô tả sự ghen tuông vô lối của Tú Bà, Nguyễn Du đã viết:

Mụ nghe lời nói hay tình,

Bấy giờ mới nổi tam bành mụ lên. (câu 961 - 962). Còn bản chất của Tú Bà là tham lam vô độ:

Mụ càng tô lục chuốt hông,

Máu tham, hễ thấy hơi đồng thì mê. (câu 1305 - 1306).

Từ nghỉ trong tiếng Nghệ Tĩnh là đại từ nhân xưng ngôi thứ ba, số ít, tương đương với các từ: ông ấy, bà ấy, lão ấy, hắn ta, nó trong tiếng Việt phổ thông. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã dùng từ nghỉ, khi thì chỉ sự trân trọng đối với nhân vật như trong câu:

Có nhà Viên ngoại họ Vương,

Gia tư, nghỉ cũng thường thường bậc trung. (câu 11 - 12 )

Nhưng có khi từ nghỉ được dùng để chỉ sự coi thường nhân vật phản diện, như trong

câu :

Vài tuần chưa cạn chén khuyên,

Mái ngoài nghỉ đã giục liền ruỗi xe (câu 893 - 894).

Từ nghỉ còn được dùng để chỉ sự khinh bỉ đối với kẻ lừa đảo Sở Khanh, kẻ đã “Một tay chôn biết mấy cành phù dung”, như trong câu:

Phụ tình án đã rõ ràng,

Dơ tuồng, nghỉ mới tìm đường tháo lui. (câu 1187 - 1188).

Có thể nói: Nguyễn Du là người đột phá, là người đi tiên phong trong việc sử dụng các từ địa phương trong văn chương đại chúng. Theo gương ông, các thế hệ văn nghệ sỹ Việt Nam hiện đại đã tìm cách đưa ngôn ngữ địa phương vào tác phẩm của mình…

Hà Nội tháng 7 năm 2020

               N.V.A

QUỸ BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ DI SẢN VĂN HOÁ NGUYỄN DU VÀ TRUYỆN KIỀU TÀI TRỢ TOÀN BỘ GIẢI THƯỞNG CÁ NHÂN CỦA CUỘC THI ĐỌC THUỘC TRUYỆN KIỀU HUYỆN NGHI XUÂN

     Ngày 18/4/2023, tại Nhà văn hóa Nguyễn Du, huyện Nghi Xuân đã tổ chức chung kết Cuộc thi đọc thuộc Truyện Kiều gắn với chuỗi sự kiện Tuần Văn hóa Nguyễn Du năm 2023.

    Trưởng Ban Giám khảo cuộc thi là nhà thơ Vương Trọng, Uỷ viên Ban thường vụ Hội Kiều học Việt Nam. Tham gia vòng chung kết có 66 thí sinh, trong đó có 16 cán bộ, giáo viên và 50 học sinh các cấp. Đây là những thí sinh đã vượt qua hàng ngàn thí sinh tại vòng sơ khảo của trường trước đó.

Các thí sinh dự thi là học sinh phải đọc thuộc, trôi chảy tối thiểu 3 trích đoạn nhỏ (đối với học sinh tiểu học) và 3 trích đoạn vừa (đối với học sinh THCS, THPT, Trung tâm GDNN-GDTX) mà mình yêu thích trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.


Trao giải cho các cá nhân đạt giải Nhất.


    Thí sinh dự thi là cán bộ, giáo viên, nhân viên các trường học phải đọc thuộc, trôi chảy tối thiểu 3 trích đoạn vừa bất kỳ mà mình yêu thích trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.

Cuộc thi nhằm quảng bá, tôn vinh, góp phần gìn giữ, nâng tầm giá trị của kiệt tác Truyện Kiều trên quê hương Đại thi hào Nguyễn Du, đồng thời thúc đẩy phong trào đọc thuộc kiệt tác Truyện Kiều trong các nhà trường trên địa bàn huyện Nghi Xuân.

    Cuộc thi cũng đã tạo được không khí vui tươi, phấn khởi cho cán bộ quản lí, giáo viên và học sinh nhằm xây dựng môi trường học đường thân thiện, tích cực; là dịp để các đơn vị có cơ hội giao lưu, học hỏi, trao đổi kinh nghiệm trong việc đa dạng hóa các hình thức học tập, vui chơi phù hợp với hoạt động giáo dục học sinh trong các nhà trường.

    Tại cuộc thi, các thí sinh đã thể hiện xuất sắc phần thi của mình về phong thái, giọng đọc mềm mại, trôi chảy, truyền cảm hứng cho người nghe về những câu thơ trong Truyện Kiều của Đại thi hào Nguyễn Du.

Sau một ngày tranh tài, Ban tổ chức đã trao giấy chứng nhận và giải thưởng với 9 giải tập thể và 40 giải cá nhân.

Quỹ bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hoá Nguyễn Du và Truyện Kiều tài trợ toàn bộ giải thưởng cá nhân của Cuộc thi đọc thuộc Truyện Kiều huyện Nghi Xuân với trị giá 18.900.000đ./.

TUẦN VĂN HOÁ DU LỊCH NGUYỄN DU

 

Một cảnh tại lễ khai mạc

        Từ ngày 15/4 đến 19/4/2023 tại huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh diễn ra “Tuần Văn hoá - Du lịch Nguyễn Du”. Đây là một hoạt động nhằm quảng bá hình ảnh văn hóa, con người địa phương, nhất là sự lan tỏa những giá trị của Nguyễn Du và Truyện Kiều cùng các tác phẩm của ông trong đời sống. Từ đó, làm tiền đề để phát huy thế mạnh du lịch đặc sắc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Đây cũng là chuỗi sự kiện chuẩn bị cho Lễ khai trương mùa du lịch biển Hà Tĩnh năm 2023  diễn ra vào tối 22/4 tại Khu du lịch Xuân Thành (Nghi Xuân). Tuần Van hoá Du lịch Nguyễn Du được diễn ra như sau:

Tối 15/4 diễn ra Lễ khai mạc Tuần Văn hoá Nguyễn Du tại quảng trường Nguyễn Du với chương trình nghệ thuật “Truyện Kiều với không gian diễn xướng”. Tại chương trình này, người dân, du khách được thưởng thức và hòa mình vào các làn điệu trò Kiều; dân ca ví, giặm; ca trù; ngâm Kiều, lẩy Kiều, xẩm Kiều, ru Kiều...

Tối 16/4, vở kịch “Hoạn Thư ghen” sẽ được các nghệ sĩ, diễn viên CLB Sân khấu “Biển hẹn” trực thuộc Hội Nghệ sĩ Sân khấu Hải Phòng biểu diễn tại Quảng trường Nguyễn Du. Sau đó sẽ diễn tiếp tại các địa phương Thị xã Hồng Lĩnh, Can Lộc, Lộc Hà.

Tối 17/4 chiếu phim tài liệu nghệ thuật về Nguyễn Du và Truyện Kiều;

        Ngày 18/4, Chung kết cuộc thi “Đọc thuộc Truyện Kiều” tại Nhà văn hóa Nguyễn Du;

        Tối 18/4 chiếu phim “Kiều” của Đạo diễn Mai Thu Huyền.

        Tối 19/4, chiếu phim “ Kiều @“ của đạo diễn Đỗ Thành An


Cảnh diễn "Từ Hải chết đứng"

    Để chuẩn bị cho Tuần văn hoá Nguyễn Du thành công, huyện Nghi Xuân đã chuẩn bị hết sức chu đáo cho các sự kiện. Chương trình nghệ thuật “Truyện Kiều với không gian diễn xướng”. Ngoài các nghệ nhân và các diễn viên quần chúng, đêm khai mạc có sự góp mặt của ca sĩ Phan Thị Quỳnh Anh - á quân Sao Mai 2019, là một người con quê hương Nghi Xuân. Các câu lạc bộ trò Kiều, ca trù, hát văn… không kể ngày, đêm tích cực tập luyện với những trích đoạn “Gia đình viên ngoại”, “chị em Kiều viếng mộ Đạm Tiên”; “Kim Kiều giao ước” hay “Kiều rơi vào lầu xanh bị ép làm kỹ nữ” , “Kim - Kiều đoàn viên” bằng các làn điệu dân ca ví, giặm; các nghệ nhân hăng say tập luyện “Tiếng đàn Thuý Kiều qua 8 lần gảy” qua các làn điệu ru, lẩy, ví, ngâm kiều, ca trù, tiết mục “Khép lại thiên Truyện Kiều” bằng những làn điệu hát văn… Các trường học, giáo viên và học sinh cũng đang hào hứng chuẩn bị cho cuộc thi Chung kết “Đọc thuộc Truyện Kiều” sắp được diễn ra trong Tuần Văn hoá - du lịch Nguyễn Du. Công ty CP Không gian Văn hóa Việt Media, Phòng Văn hóa - Thông tin huyện cũng chuẩn bị tốt các điều kiện để chuẩn bị công chiếu phim tài liệu nghệ thuật về Nguyễn Du và Truyện Kiều tại Nhà văn hóa Nguyễn Du; phim “Kiều” của đạo diễn, diễn viên Mai Thu Huyền; “ “ Kiều @“ của đạo diễn Đỗ Thành An. 

    Sự kiện Tuần Văn hoá - du lịch Nguyễn Du gắn với lễ khai trương du lịch biển năm 2023 có quy mô cấp tỉnh ở Khu du lịch biển Xuân Thành là chuỗi hoạt động có ý nghĩa, góp phần khẳng định giá trị trường tồn của Truyện Kiều và lưu giữ, phổ biến các loại hình văn nghệ dân gian trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Đặc biệt, sự kiện sẽ tạo điểm nhấn nhằm tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, văn hóa, con người nơi đây, thu hút du khách thập phương đến với Nghi Xuân ngày càng nhiều thêm./.




GIÁO SƯ ĐẠI HỌC HARVARD THAM QUAN VÀ TRAO TẶNG KỶ VẬT CHO KHU DI TÍCH NGUYỄN DU


         Được biết Đoàn công tác của Đại học Harvard (Mỹ) được mời đến Hà Nội để gặp gỡ với Ban chỉ đạo 515, Bộ quốc phòng, Bộ Lao động Thương Binh Xã Hội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các ban ngành liên quan để thúc đẩy sự hợp tác đào tạo, trong đó có Dự án “Di sản chiến tranh Việt Nam chưa được khám phá”nhằm giúp chính phủ và nhân dân Việt Nam xác định danh tính và tìm hài cốt liệt sĩ dựa vào các nguồn tư liệu lịch sử của Mỹ, trong đó co hàng triệu tài liệu của lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam  phía Mỹ thu giữ trên chiến trường, có nhiều tư liệu viết về Nguyễn Du và Truyện Kiều. Dự án “Di sản chiến tranh Việt Nam chưa được khám phá” được tiến hành trên cơ sở bản ghi nhớ của hai chính phủ Việt Nam và Mỹ thực hiện “Sáng kiến tìm kiếm người Việt Nam mất tích trong chiến tranh” được ký kết tháng 7/2021.         

Nhân dịp này Quỹ Bảo tồn phát huy giá trị di sản Nguyễn Du và Truyện Kiều mời đoàn về thăm Khu di tích Nguyễn Du và trao tặng kỷ vật về Truyện Kiều của bộ đội ta mà phía Mỹ thu được. 

Chiều ngày 9/4/2-23, đoàn Đại học Harvard do Tiến sĩ Anthony James Saich - Giáo sư quan hệ quốc tế, Giám đốc Quỹ Nghiên cứu châu Á thuộc Trung tâm Quản lý nhà nước, Trường Quản lý nhà nước và chính sách công Kennedy (HKS), Đại học Harvard, Chủ nhiệm Dự án “Di sản chiến tranh Việt Nam chưa được khám phá” dẫn đầu đã đến tham quan và trao kỷ vật cho Khu di tích Nguyễn Du. Đi cùng đoàn có Tiến sĩ Nguyễn Thanh Hải, Giám đốc Chương trình nghiên cứu chiến tranh Việt Nam và Thế giới và  Dự án Di sản chiến tranh Việt Nam chưa dươc khám phá Đại học Harvard; Tiến sĩ Phạm Hồng Hà (Viên sử học Việt Nam) và ông Trịnh Giang; Ông Ngô Đình Quỳnh, Quản lý Dự án Di Sản Chiến Tranh Viêt Nam Chưa Được Khám Phá.

Đoàn đã tham quan khu di tích, bảo tàng - nơi trưng bày gần 1.000 tài liệu, hiện vật liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp của Đại thi hào như: nghiên bút của Nguyễn Du, bản Kiều in từ bản khắc năm 1866, cuốn Truyện Kiều viết theo lối thư pháp (độc bản), thư pháp Truyện Kiều dài nhất Việt Nam (độc bản), bộ sưu tập Truyện Kiều xuất bản bằng các thứ tiếng, sưu tập sách viết về Nguyễn Du...


Sau khi tham quan, đoàn công tác Đại học Harvard đã trao bản sao cuốn nhật ký của một chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam do Trung tâm Khai thác tài liệu tổng hợp về chiến tranh Việt Nam (CDEC) thu thập cho BQL Khu di tích Nguyễn Du để lưu giữ, trưng bày.


Qua trao đổi, Tiến sỹ Anthony James Saich bày tỏ ấn tượng với Khu di tích và Đại thi hào Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều. Cuốn sổ tay của chiến sỹ Việt Nam có bút tích về truyện Kiều - Nguyễn Du là sự khởi đầu cho sự hợp tác lâu dài giữa hai bên trong việc sưu tầm những kỷ vật có liên quan đến Truyện Kiều của các chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam mà phía mỹ thu được./.

TIẾNG VIỆT TRONG TRUYỆN KIỀU VÀ NHỮNG PHÁI SINH

    


                                                                 TS. NGUYỄN LÊ HOÀI ANH


      1.NGÔN NGỮ TRUYỆN KIỀU ĐÃ ĐƯỢC DÂN GIAN HÓA


    Trở thành đỉnh cao văn học Việt Nam, Truyện Kiều của Nguyễn Du có tính phổ cập rộng rãi trong quần chúng nhân dân. Phạm vi ứng dụng của Truyện Kiều vào đời sống khá phổ biến, phong phú và đa dạng. Có thể khó thống kê chính xác số người thuộc Truyện Kiều, nhưng không khó để khẳng định bất cứ xóm thôn Việt Nam nào cũng biết Truyện Kiều; bất kỳ thế hệ người Việt nào cũng từng đọc, từng nghe, từng thuộc ít thì dăm ba câu, dài thì cả cuốn Truyện Kiều dài 3254 câu lục bát, kể cả đọc ngược từ câu cuối cùng số 3253-3254 “Chuyện quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh” đến câu mở đầu “Rằng năm Gia Tĩnh Triều Minh…”. Vì thế không lạ có những cụ già không hề biết chữ, nhưng vẫn thuộc làu làu cả cuốn sách. Người dân Việt Nam không chỉ yêu mà còn biết vận dụng sáng tạo Truyện Kiều trong đời sống hàng ngày, đưa đẩy, ví von, mượn ý tứ, mượn câu chữ, so sánh với các nhân vật trong tác phẩm để làm tăng giá trị biểu cảm của ngôn ngữ sử dụng. Bắt đầu từ cuối năm 2019, đến tháng 6/2020, Hội Kiều học Việt Nam đã tổ chức bốn cuộc thi “Bạn đọc thuộc Kiều” trên phạm vi toàn quốc. Cuộc thi thành công là minh chứng sống động cho Truyện Kiều đã đi vào tâm thức dân tộc, cuộc sống đời thường của đông đảo người Việt các thế hệ.

Trước hết, nhìn ở góc độ thể loại, Nguyễn Du đã khéo léo chọn thể lục bát -thể thơ dân tộc có vần (vần 6, vần 8), ngữ điệu, dễ thuộc, dễ nhớ cấu thành kiệt tác gồm 3254 câu lục bát.

    Truyện Kiều viết bằng chữ Nôm, tiếp nhận yếu tố Hán Việt, sử dụng điển tích, điển cố, song Nguyễn Du luôn có xu hướng đưa Truyện Kiều về gần hơn với đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân bằng ngôn từ thuần Việt trong sáng, dễ hiểu. Khi so sánh với những tác phẩm có giá trị thời Lê mạt, như Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm, Phan Trần truyện, Hoa Tiên ký... viết bằng quốc âm, cụ Đào Duy Anh cho rằng những tác phẩm ấy tuy viết bằng quốc âm, nhưng “lời văn điêu trác, hay dùng điển cố, cho nên chỉ được các hạng thượng lưu trí thức thưởng lãm, mà không phổ cập trong dân gian. Duy Truyện Kiều văn chương đủ tính nghiêm trang, đường hoàng, điêu luyện, khiến cho kẻ học thức phải khâm phục và yêu mến, mà lại đủ cả tính giản dị, phổ thông để khiến cho bình dân hiểu được mà thưởng thức”(1). Trong khi các tác phẩm quốc âm mà cụ Đào Duy Anh kể trên chỉ sử dụng khoảng 40%, thì Truyện Kiều của Nguyễn Du sử dụng trên 70% từ thuần Việt. Trong 3.254 câu lục bát, các từ gốc Hán (dạ đủi, tình quân, bồ liễu, xuân huyên, tấc vàng, trướng đào, tri âm, nhãn tiền, quan tái, quan san…) được dùng có liều lượng. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du chỉ có duy nhất một cặp lục bát sử dụng đậm từ Hán Việt: “Hồ Công quyết kế thừa cơ/ Lễ tiên binh hậu khắc cờ tập công”. Gần 30% từ gốc Hán được sử dụng trong Truyện Kiều, Nguyễn Du lựa chọn những từ đã được Việt hóa và tiếp tục sáng tạo nên ngôn ngữ bình dân như lời ăn tiếng nói vẫn dùng trong giao tiếp hàng ngày. Các từ: xuân, hoa, hồn, tâm, tài, mệnh, đàn bà... đã đi vào đời sống tự nhiên nên dễ được tiếp nhận. Theo khảo sát, các từ được sử dụng tần suất lớn trong Truyện Kiều: từ “hoa” 132 lần, từ “thân” 63 lần, từ “xuân” 59 lần, từ “hồn” 15 lần, từ “ngựa” 14 lần, chữ “chút” (uyển ngữ) dùng 47 lần; 119 lần từ ngữ chỉ màu sắc…

Kiệt tác Truyện Kiều đã đi vào đời sống sâu sắc, bền bỉ. Làm nên thành công này trước hết phải kể đến sự sáng tạo của Nguyễn Du trong việc sử dụng nghệ thuật ngôn từ. Nhà thơ sử dụng nhiều chất liệu của ca dao, tục ngữ nhưng cũng từ Truyện Kiều, nhân dân ta có thêm nhiều thành ngữ mới trong đời sống hàng ngày. Điều kỳ diệu là Nguyễn Du đã sáng tạo ngôn từ mới chưa từng có trong thực tế, cũng không có trong từ điển. Nhà thơ phá vỡ cách tạo từ thông thường để tạo từ mới gây hiệu quả lạ hoá và phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo thành những kết hợp riêng (gió trúc mưa mai, gió giục mây vần, gió gác trăng sân, gió thảm mưa sầu, hoa thải hương thừa, hồn rụng phách rời, lấy gió cành chim, tô lục chuốt hồng, tiếc lục tham hồng, liễu ép hoa nài, liễu chán hoa chê, ngày gió đêm trăng, nắng giữ mưa gìn, ăn gió nằm mưa, bướm chán ong chường, bướm lả ong lơi, cười phấn cợt son, dày gió dạn sương, gìn vàng giữ ngọc…). Nói như GS. Trần Đình Sử đó là những ngôn từ ý tượng (là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng, không phải là hình ảnh sao chép thực tại) có cấu tạo riêng, nói lên sự cảm thụ chủ quan của tác giả. Từ khi Truyện Kiều ra đời, nhân dân ta đã vận Kiều từ ngôn ngữ, nhân vật, tả cảnh…trong Truyện Kiều để sáng tạo nên những sáng tác dân gian.

Truyện Kiều có ảnh hưởng sâu rộng ở Việt Nam, trở thành một thứ “kinh truyện”, là cuốn sách để học hỏi lẽ đời, đồng thời cũng được coi là sách bói, thành đối tượng để tập Kiều, đố Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, ngâm Kiều, kể chuyện Kiều...”. Nhiều cuộc thi tập Kiều với những hình thức khác nhau được tổ chức từ sau Truyện Kiều ra đời, kéo dài đến bây giờ.

Vịnh Kiều

    Ngay sau khi ra đời, Truyện Kiều đã được vua quan (Vua Minh Mạng, Tự Đức), giới trí thức, Nho sĩ (Vũ Trinh, Nguyễn Lượng, Phong Tuyết chủ nhân, Thập Thanh thị, Mộng Liên Đường chủ nhân, Nguyễn Văn Thắng, Đào Nguyên Phổ, Kiều Oánh Mậu, Chu Mạnh Trinh,…) quan tâm ngâm vịnh. Đề từ Đoạn trường tân thanh in đầu bản Kiều Nôm do Phạm Quý Thích viết cho khắc ván là bài thơ luật Vịnh Kiều đầu tiên. Sau đó, Truyện Kiều đã trở thành đề tài ngâm vịnh trong môn sinh của Phạm Quý Thích, lan rộng đến các tầng lớp Nho sĩ và trở thành chủ đề cho một phong trào bình luận sôi nổi, ngâm vịnh rộng rãi cho đến nay. Quan niệm chung Vịnh Kiều là lấy Truyện Kiều, hoặc các nhân vật trong Truyện Kiều làm đề tài để qua đó giãi bày tâm sự hoặc nêu lên quan điểm của mình khi nhận định một vấn đề nào đó. Trải qua thời gian từ thời điểm Truyện Kiều ra đời đến nay, thơ Vịnh Kiều được đông đảo công chúng yêu thích, truyền tụng như một “trò chơi văn chương” và các tác giả nổi tiếng các thế hệ, như: Phạm Quý Thích, Phan Văn Trị, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Tố Hữu, Tế Hanh, Chế Lan Viên, Huy Cận... có thơ về đề tài Truyện Kiều được bạn đọc mến mộ. Với Thơ vịnh Kiều (1973), Nguyễn Văn Y là người đầu tiên ý thức về việc nghiên cứu những ảnh hưởng của ngôn ngữ văn hoá Truyện Kiều đến giới văn nhân hậu Nguyễn Du.

    Bói Kiều

    Theo dân gian, ai có nguyện vọng “bói Kiều” thì phải rất chu đáo, thành tâm từ trang phục chỉnh tề, thắp nén hương thơm, tay cầm Truyện Kiều trang trọng, thành tâm khấn ước: “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều; con tên là…, ngụ tại địa chỉ… xin cho con biết chuyện…của con sẽ như thế nào, xin ứng vào trang (phải/trái, dòng thứ…tính từ dưới lên/ hoặc từ trên xuống)”. Khấn xong, người bói lật trang Kiều để tìm câu ứng nghiệm…

    Nhại Kiều

“Nhại Kiều” là phỏng theo một số câu quen thuộc trong Truyện Kiều để viết ra những câu tương tự, nhưng thường mang nét nghĩa châm biếm, giễu cợt. Từ hai câu Kiều “Có tài mà cậy chi tài/ Chữ tài liền với chữ tai một vần” đã có người “nhại Kiều” thành: “Có tiền mà cậy chi tiền/ Có tiền nhiều quá cũng phiền lắm thay”…

Đố Kiều

Đố Kiều là hình thức thử tài thuộc Truyện Kiều. Khi có câu hỏi đố, người trả lời cần có có đáp án nhanh. Đố Kiều có nhiều dạng: trích dẫn y nguyên một câu Kiều, tổng hợp nhiều câu Kiều…trong đó đố vui kiểu chơi chữ chiếm một tỷ lệ lớn. Đố Kiều đã được sử dụng rất phổ biến trong giao tiếp, ứng xử, trong các loại hình nghệ thuật sân khấu, hát đối... mang lại tiếng cười sảng khoái, thông minh, am tường Truyện Kiều.

Một số ví dụ câu đố Kiều vui


Câu đố

Trả lời

Truyện Kiều anh thuộc đã lòng

Chỗ nào tơ liễu mà không buông mành?

Dưới cầu nước chảy trong veo

Bên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha

Truyện Kiều anh thuộc đã làu

Đố anh kể được một câu năm người?

Này chồng, này mẹ, này cha Này là em ruột, này là em dâu

Đến đây hỏi khách cựu giao

Chàng Kim đau bụng thế nào chàng ơi?

Khi tựa gối, khi cúi đầu

Khi vò chín khúc, khi chau đôi mày

Năm 2000, Tổng thống mỹ Bill Clinton sang thăm Việt Nam đã chọn câu nào trong Truyện Kiều để lẩy Kiều?

Sen tàn cúc lại nở hoa

Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân

Nghe đồn anh thuộc Kiều làu

Đố anh kể được một câu hết Kiều?

Lời quê chắp nhặt dông dài

Mua vui cũng được một vài trống canh

Truyện Kiều anh đọc đã nhiều

Đố anh kể được câu Kiều năm “cho”

Làm cho cho mệt cho mê

Làm cho đau đớn ê chề cho coi


Lẩy Kiều

Lẩy Kiều là hình thức lấy bất kỳ câu nào trong 3254 câu trong Truyện Kiều. Người lẩy Kiều vừa phải hiểu tác phẩm và vừa biết lấy câu Kiều nào cho phù hợp với văn cảnh của mình. Độ dài ngắn vận dụng là tùy thuộc vào nội dung người lẩy Kiều muốn diễn đạt.


Tập Kiều

So với tất cả các hình thức trên, “Tập Kiều” là một hình thức sáng tạo độc đáo nhất của nhân dân với lối chơi tao nhã, sang trọng…Điều quan trọng người “Tập Kiều” phải hiểu biết Truyện Kiều thì mới có thể mượn những câu chữ nguyên vẹn trong Truyện Kiều ghép với câu chữ do mình đặt. Chính nhờ có hình thức “Tập Kiều” này, người chơi đã sáng tác hàng ngàn bài thơ về Kiều với nhiều nội dung, chủ đề khác nhau.


2. NHỮNG PHÁI SINH TRUYỆN KIỀU TRONG ĐỜI SỐNG


Nguyễn Du là bậc thầy về việc sử dụng ngôn ngữ. Ngôn ngữ Truyện Kiều đã được dân gian hóa bằng nhiều hình thức, như: đề Kiều, vịnh Kiều, hát Kiều, đố Kiều, bói Kiều, lẩy Kiều, tập Kiều…Truyện Kiều mang đậm văn hóa Việt. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường vận Kiều, tập Kiều trong bài viết, nói chuyện, tiếp khách.

Viết bài thơ Đi thuyền trên sông Đáy ở chiến khu Việt Bắc, Bác Hồ đã đưa dẫn câu Kiều:

“Dòng sông lặng ngắt như tờ

Sao đưa thuyền chạy, thuyền chờ trăng theo Bốn bề phong cảnh vắng teo

Chỉ nghe cót két tiếng chèo thuyền nan Lòng riêng riêng những bàn hoàn

Lo sao khôi phục giang san Tiên Rồng Thuyền về trời đã rạng đông

Bao la nhuốm một màu hồng đẹp tươi”

Ngày 18/8/1949

Cảm ơn nữ sĩ Hằng Phương tặng cam, Bác Hồ đã chơi chữ “cam” bằng vận dụng thành ngữ “khổ tận cam lai” tạo cậu thơ số 3210 trong Truyện Kiều Tẻ vui bởi tại lòng này/ Hay là khổ tận đến ngày cam lai” thành bài thơ:

Cảm ơn người biếu gói cam

Từ thì không đặng nhận làm sao đây.

 Ăn quả nhớ kẻ trồng cây

Phải chăng khổ tận đến ngày cam lai. 

(Thư cảm ơn nữ sĩ Hằng Phương biếu cam; Tết Bính Tuất 1946)

Nhân kỷ niệm 10 năm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1954), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát chặng đường trưởng thành và phát triển của Quân đội bằng cách lẩy Kiều: “Quân ta công trạng lớn lao/ Mười năm lịch sử biết bao nhiêu tình”. Nhân Tết Nguyên đán Canh Tý 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh khéo léo nhắc nhở đồng bào, chiến sĩ cả nước thực hành tiết kiệm “Trăm năm trong cõi người ta/ Cần kiệm xây dựng nước nhà mới ngoan/ Mừng Xuân, Xuân cả thế gian/ Phải đâu lãng phí cỗ bàn mới Xuân”. Cùng năm đó, tiếp Tổng thống Guinea Sekou Toure, Bác Hồ đã “lẩy Kiều”:

“Đến bây giờ mới thấy đây/ Mà lòng đã chắc những ngày thanh niên”. Câu thơ sáng tạo của Bác được dẫn từ câu số 2.283 trong Truyện Kiều:

Đến bây giờ mới thấy đây

Mà lòng đã chắc những ngày một hai

Chuyến viếng thăm của Chủ tịch K.E.Vôrôsilốp và Đoàn đại biểu Chính phủ Liên xô đã kết thúc. Trước ngày Đoàn lên đường về nước, Bác Hồ tổ chức một buổi liên hoan văn nghệ. Đoàn văn công được mời đến phục vụ biểu diễn. Trước mặt đoàn văn công là Bác Hồ và Thủ tướng Phạm Văn Đồng và vị khách quý Vôrôsilốp ngồi chờ biểu diễn. Khi đoàn văn công sắp xếp đội hình, Bác đứng lên, quay sang vị khách “tập Kiều” câu số 555 và 556:

Đã nguyền hai chữ đồng tâm Trăm năm thề chẳng ôm cầm thuyền ai

Đây là câu nói về Kim Trọng và Thúy Kiều gặp nhau trao duyên, thề yêu nhau trọn đời. Nhưng lúc đó nghe tin chú mất, Kim Trọng chia tay người yêu về Liêu Dương hộ tang chú và không quên dặn Kiều “Gìn vàng giữ ngọc cho hay/ Cho đành lòng kẻ chân mây cuối trời”. Thúy Kiều đáp lại người yêu bằng hai câu thơ trên thể hiện thái độ dứt khoát, tin cậy, chung thủy. Trong diễn văn tiễn Chủ tịch K.E.Vôrôsilốp và Đoàn về nước, kết thúc tốt đẹp chuyến thăm hữu nghị chính thức Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:

Quan san muôn dặm một nhà Bốn phương vô sản đều là anh em

Người đã mượn từ “quan san” trong hai câu số 1519-1520 “Người lên ngựa kẻ chia bào/ Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”. Từ “quan san” là nơi quan ải, núi non, thường được dùng để chỉ sự xa xôi cách trở. Câu thơ trên khẳng định tình đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em.

Các nguyên thủ quốc gia sang thăm Việt Nam thường quan tâm đến thành tố văn hóa Việt, trong đó sự quan tâm nổi bật phải kể đến là dẫn Truyện Kiều của Nguyễn Du với nhiều hình thức: tập Kiều, lẩy Kiều... Có lẽ câu nói của GS John Swensson (giảng viên dạy Truyện Kiều ở Đại học De Anza bang California, cựu binh Mỹ đóng quân ở Củ Chi năm 1966, ở Sài Gòn năm 1968 – 1969): “Muốn tìm hiểu con người Việt Nam thì hãy tìm hiểu Truyện Kiều…” là gợi ý để các nhà lãnh đạo Nhà Trắng quan tâm đến Truyện Kiều?

Tháng 11/2000, nhân chuyến thăm đầu tiên của Tổng thống Mỹ tới Việt Nam sau năm 1975, trong diễn văn đáp từ của Tổng thống Williiam Bill Clinton tại cuộc chiêu đãi trọng thể của Chủ tịch nước Trần Đức Lương tối 17/11/2000, Tổng thống Bill Clinton đã chọn 2 câu Kiều số 1795 và 1796: “Sen tàn cúc lại nở hoa/ Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân” (“Just as the lotus wilts, the mums bloom forth/ Time softens grief, and the winter turns to spring). Câu Kiều được chọn đầy ý nghĩa vào thời điểm sau 25 năm chiến tranh và sau 5 năm hai nước bình thường hóa quan hệ. Chuyến thăm của Tổng thống Mỹ đánh dấu một khởi đầu mới cho quan hệ Việt - Mỹ mà cả hai bên cùng có trách nhiệm dựng xây. 13 năm sau, phát biểu của Bill Clinton đã có trong hồ sơ của Việt Nam gửi UNESCO đề nghị vinh danh Nguyễn Du. Chả là Ban soạn thảo hồ sơ đã dẫn câu “lẩy Kiều” của nguyên Tổng thống Mỹ như một minh chứng tiêu biểu cho tầm ảnh hưởng Đông Tây của Truyện Kiều(2). Tháng 7/2015, lần đầu tiên người đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam có chuyến thăm Hoa Kỳ. Tại Phòng Bầu dục của Nhà Trắng đã có cuộc gặp gỡ thú vị giữa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Trong bài phát biểu tiếp lời, thay mặt Tổng thống Barack Obama, Phó Tổng thống Joe Biden đã mượn 2 câu Kiều số 3121, 3122 đáp từ: “Trời còn để có hôm nay/ Tan sương đầu ngõ vén mây giữa trời”, khi Kiều đoàn viên với chàng Kim. Ẩn ý sâu xa từ hai câu Kiều “tan sương mù”, “vén mây đen” là nói về những chặng đường thăng trầm trong quan hệ Việt - Mỹ và hướng tới tương lai là những nỗ lực từ hai phía cải thiện, phát triển mối quan hệ hai nước lên một tầm cao mới. Có thể nói chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã giải quyết được nhiều vấn đề tầm vĩ mô, mở ra kỷ nguyên mới của quan hệ Việt-Mỹ. Trong bài phát biểu trước 2000 người Việt Nam tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia ngày 25/5/2016, Tổng thống Barack Obama đã dẫn 2 câu Kiều số 355 và 356 kết thúc bài phát biểu của mình: “Rằng trăm năm cũng từ đây/ Của tin gọi một chút này làm ghi((Henceforth I’m bound to you for life, he said/ Call these small gifts a token of my love). Đây là hai câu Kiều tươi sáng nhất trong ngữ cảnh Truyện Kiều khi Kim Trọng “Xắn tay mở khóa động đào/ Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên Thai” để Kim Kiều gặp nhau. Câu Kiều được Tổng thống Obama dẫn trên đã nói về khát vọng cho tương lai Việt - Mỹ và hành trình hai nước cùng hướng tới…

Các nguyên thủ quốc gia đã thể hiện cái nhìn sâu sắc từng câu thơ Kiều để tìm ra những phương diện, ý nghĩa liên tưởng có thể vận dụng Kiều và họ hiểu hơn ai hết việc đưa văn hóa Việt Nam vào ngoại giao chính trị, văn hóa.

Từ Truyện Kiều của Nguyễn Du, nhân dân lao động đã ví von, đưa đẩy tạo nên những sáng tác dân gian mới:

-Truyện Kiều anh học đã thông Đố anh kể được một dòng chữ Nho?

- Em như nút, anh như khuy

Như Thúy Kiều với Kim Trọng, biệt li sao đành

– Đồn em hay truyện Thúy Kiều Lại đây mà giảng mấy điều cho minh

Vì đâu Kiều gặp Kim sinh?

Vì đâu Kiều phải bán mình chuộc cha?

Truyện Kiều đã đi vào các hình thức nghệ thuật: ca dao, dân ca, hát trống quân, hát ví, hát sa mạc, hát giặm… Nhân vật trong Truyện Kiều đi vào trong lời ăn tiếng nói của nhân dân: Hò Nam Bộ: “Đường Sài Gòn trơn như mỡ. Cát núi Sập lạnh như gương. Dang tay đưa bạn lên đường. Gá duyên để gió, khác chi Kim Trọng về để lại khúc đoạn trường



cho Kiều nương”; hò Huế “Sen xa hồ sen khô hồ cạn. Lựu xa đào lựu ngã đào nghiêng/ Xa em ngày tháng gieo phiền. Khác nào như Thúy Kiều xa Kim Trọng biết mấy niên cho hết sầu”; hò khoan Quảng Nam: “Kể từ ngày xa cách người thương/ Về nhà đài sen nối sáp đọc mấy chương phong tình/ Đọc tới đoạn Thúy Kiều xa cách Kim sinh/ Thôi Oanh Oanh xa Trương Quân Thụy, nghĩ tội tình biết chừng mô”; hát quan họ Bắc Ninh: “Bây giờ tôi mới gặp tình/ Khác gì Kim Trọng thanh minh gặp Kiều/ Tiện đây tôi hỏi một điều/ Đài gương soi đến dấu bèo cho nhau/ Từ khi ăn một miếng trầu/ Miệng ăn môi đỏ, dạ sầu tương tư…”…

Có lẽ dựa vào câu: “Chén hà sảnh giọng quỳnh tương/ Giải là hương lộn, bình gương bóng lồng”, nghệ sĩ dân gian đã đưa đẩy, thay đổi, bổ sung một vài chữ cho phù hợp lối “hát mời”: “Chén ngà sánh giọng quỳnh tương/ Mời chàng nho sĩ văn chương bước vào”. Hoặc được gợi ý từ câu Kiều “Xắn tay mở khóa động đào/ Rẽ mây trông tỏ lối vào Thiên thai”, quần chúng nhân dân đã sáng tạo câu ca dao cho hợp với cách hát phường vải: “Ra tay mở khóa động đào/ Thực tiên thì được bước vào chơi tiên”…

Ảnh hưởng từ câu Kiều “Ở đây tai vách mạch dừng/ Thấy ai người cũ cũng đừng nhìn chi” trong kháng chiến chống Pháp, có nhiều tấm áp phích được treo ở nhiều nơi có dòng chữ sau:

Ở đây tai vách mạch dừng

Nhắn anh, nhắn chị xin đừng ba hoa…


3 TRUYỆN KIỀU - NGUỒN CẢM HỨNG SÁNG TẠO 


Là một trong những kiệt tác vĩ đại, giàu tính nhân văn, trải qua thời gian, Truyện Kiều vẫn luôn khẳng định một sức sống tiềm tàng tự thân với sức lan tỏa kỳ diệu, là linh hồn của dân tộc như lời khẳng định “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn...”(3); là niềm tự hào bền bỉ của người Việt khi “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Cũng không lạ khi Truyện Kiều đến với thế giới như một bức thông điệp văn hóa, một “tấm vé thông hành” nối kết thế giới mọi thời đại, nhất là thời kỳ hội nhập quốc tế hôm nay. Từ bản dịch Truyện Kiều đầu tiên được Abel des Michel chuyển sang tiếng Pháp cuối thế kỷ XIX (1884-1885), đến nay đã có trên 30 bản dịch Truyện Kiều dịch ra hơn hai mươi thứ tiếng trên thế giới, như: Anh, Pháp, Nga, Đức, Hunggari, Tây Ban Nha, Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc…

Đại thi hào Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều đã trở thành nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho nhiều văn nghệ sĩ với nhiều loại hình nghệ thuật, như âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh... Truyện Kiều đã hòa trong thế giới âm nhạc tinh tế, giàu bản sắc dân tộc mang hơi thở cuộc sống dân gian và đương đại. Hát ả đào từ lâu đã mượn những câu thơ trong Truyện Kiều để thể hiện nỗi lòng và nhân tình thế thái. Kiều đi vào những ca khúc, được minh họa bằng âm nhạc như: Minh họa Truyện Kiều của nhạc sĩ Phạm Duy (hoà âm, phối khí: Duy Cường; giọng hát: Ái Vân, Thái Hiền, Thái Thảo, Duy Quang, Tuấn Ngọc; giọng ngâm: Thanh Ngoan, Ái Vân). Hợp xướng Truyện Kiều gồm 3 chương (Mối tình đầu, Hồng nhan bạc phận và Tình chị duyên em) của Vũ Đình Ân đã chắp cánh Truyện Kiều bằng âm nhạc. Dựa vào Truyện Kiều, nhạc sĩ An Thuyên viết nhạc kịch 4 hồi dự định trình diễn vào Lễ kỷ niệm 250 năm sinh Nguyễn Du, nhưng nhạc sĩ rời cõi tạm, chưa kịp hoàn thành tác phẩm đầy tâm huyết và học trò thực hiện tiếp dự án dang dở. Nhạc sĩ Nguyễn Thiện Đạo thể nghiệm Kiều với opera qua vở Định mệnh bất chợt viết cho một giọng nữ cao (soprano) ngâm thơ, hai giọng nam trung (baryton), một giọng nam trầm (basse) cùng hợp xướng và dàn nhạc giao hưởng thực hiện với độ dài 80 phút. Đây chính là thể nghiệm táo bạo kết hợp nhiều loại hình nghệ thuật, gồm: múa ballet, opera, ngâm thơ truyền thống, kịch thoại, video, rock. Ca khúc Đêm trăng rơi được nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân viết bởi âm hưởng ca trù, hát dặm, hát ví dìu dặt… Trong mỹ thuật, Truyện Kiều đã xuất hiện với mật độ đậm đặc trong dòng tranh dân gian Hàng Trống, Đông Hồ…; trong tranh của những danh họa nổi tiếng trong làng hội họa của các họa sĩ Trần Văn Cẩn, Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái, Nguyễn Đỗ Cung… Đại thi hào Nguyễn Du và Truyện Kiều đã chạm làng điện ảnh đầu tiên từ năm 1923 với bộ phim Kim Vân Kiều do ông E.A.Famechon (người Pháp) và ông Nguyễn Văn Vĩnh khởi xướng, Công ty phim và chiếu bóng Đông Dương (Indochine Films et Cinémas) thực hiện, công chiếu tại Hà Nội vào năm 1924. Nhân 1000 năm Đại lễ Thăng Long – Hà Nội, phim Long Thành cầm giả ca (kịch bản: Văn Lê, đạo diễn: Đào Bá Sơn) ra đời. Năm 2018, đạo diễn Lưu Trọng Ninh bắt tay làm phim về Kiều với thông điệp “Kiều trong phim của tôi phải mang hơi thở đương đại hôm nay. Thúy Kiều trong phim là kiểu nhân vật thách thức số phận”. Hiện phim điện ảnh Kiều do diễn viên Mai Thu Huyền đạo diễn kiêm Giám đốc sản xuất đã thực hiện bấm máy đầu tiên tại Cao Bằng và sau đó bối cảnh phim sẽ được thực hiện tại 5 tỉnh thành: Thành phố Huế (tỉnh Thừa Thiên – Huế), Quảng Bình, Quảng Trị, Phú Thọ. Dự kiến, sau khi quay xong, vào khâu hậu kỳ và sẽ công chiếu vào quý IV năm 2020, nhân kỷ niệm 200 năm ngày mất Đại thi hào Nguyễn Du (1820-2020).

Truyện Kiều đến với nghệ thuật sân khấu cải lương, chèo, rối cạn, kịch hình thể, kịch nói, kịch thơ, dân ca bài chòi Khu 5, ca Huế... Vở kịch hình thể Nguyễn Du với Kiều là một thử nghiệm táo bạo của NSND Lan Hương. Vở kịch Kiều (tác giả Nguyễn Hiếu, đạo diễn NSND Anh Tú) được công chúng và hội đồng chuyên môn ghi nhận bởi sự kết hợp khéo léo nhiều yếu tố kịch, ca, hình thể…trong một vở diễn. Vở kịch nói Hoạn Thư ghen (tác giả: Phương Văn, đạo diễn: NSƯT Trần Tường) đã mang đến cho công chúng một làn gió mới đầy sáng tạo, mới mẻ và táo bạo. Trong đó, đáng chú ý là vở rối Thân phận nàng Kiều (tác giả: NSƯT Lê Chức, nhà văn Nguyễn Hiếu; đạo diễn NSND Nguyễn Tiến Dũng) lần đầu tiên được giải mã bằng ngôn ngữ rối cạn (rối và người). Vở diễn đã đoạt nhiều giải thưởng cao tại Liên hoan Quốc tế sân khấu thử nghiệm 2019 như Huy chương Vàng cho Vở diễn xuất sắc, giải Đạo diễn xuất sắc, giải Họa sĩ tạo hình xuất sắc; 2 Huy chương Vàng cho diễn viên xuất sắc và 5 Huy chương Bạc cho các diễn viên tham gia vở diễn…

Truyện Kiều gắn bó lâu bền với đời sống của quảng đại quần chúng nhân dân. Đã hơn hai thế kỷ trôi qua kể từ khi ra đời, song sức sống của Truyện Kiều vẫn và luôn mãnh liệt, dấu ấn đặc sắc, sức lan tỏa kỳ diệu đầy nội lực từ nội dung cốt truyện đến hình thức thể hiện, trong đó phải kể đến sáng tạo lớn nhất của Nguyễn Du là nghệ thuật ngôn từ. Chỉ đến Truyện Kiều ngôn từ mới nâng lên thành nghệ thuật. Cũng chỉ đến Truyện Kiều, Đại thi hào Nguyễn Du mới được tôn vinh là nghệ sĩ lớn về ngôn từ. Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Du đến Truyện Kiều đã được UNESCO vinh danh xứng đáng. Đây là sự ghi nhận với những cống hiến của Đại thi hào Nguyễn Du cho nền văn học Việt Nam và sự phát triển của văn hóa nhân loại. Nhà thơ đã đặt nền móng quan trọng trong cách    ứng xử nghệ thuật với ngôn ngữ dân tộc. Nói như học giả Đào Duy Anh, Truyện Kiều của Nguyễn Du đã đặt nền móng cho ngôn ngữ văn học hiện đại của nước ta.

N.L.H.A


        CHÚ THÍCH:

(1) Đào Duy Anh (1943), Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan Hải Tùng Thư (Huế).

(2) Đăng Trường, Ngoại giao và thơ Kiều, nguồn:http://cand.com.vn/Su-kien-Binh-luan-thoi-su/Ngoai-giao- va-tho-Kieu-357595/

(3) Trích bài diễn thuyết về Truyện Kiều do nhà văn hóa Phạm Quỳnh đọc nhân lễ giỗ lần thứ 104 của Nguyễn Du (ngày 8/12/1924- 10/8 năm Giáp Tý) do Hội Khai trí Tiến Đức tổ chức. Bài được đăng trong Tạp chí Nam Phong số 86.

     TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh (1943), Khảo luận về Kim Vân Kiều, Quan Hải Tùng Thư (Huế)

2. Vũ Ngọc Khánh (2005) Giai thoại Truyện Kiều, Nxb Văn hoá Thông tin

3. Vũ Ngọc Khánh (2004), Văn hoá Việt Nam, những điều học hỏi, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội

4. Nguyễn Lộc (1965), Ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều, Tạp chí Văn học số 11/1965 5.Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam nửa cuối XVIII đến hết XIX, Nxb Giáo dục

6. Phạm Quỳnh (1924), Lễ giỗ lần thứ 104 của Nguyễn Du, Tạp chí Nam Phong số 86

7. Trần Nho Thìn (2008), Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội

8. Đăng Trường, Ngoại giao và thơ Kiều, nguồn:http://cand.com.vn/Su-kien-Binh-lu- an-thoi-su/Ngoai-giao-va-tho-Kieu-357595/



 

THƯ NGỎ

Kính thưa quý vị!      Nguyễn Du (1765-1820) là Đại thi hào của dân tộc Việt Nam, Danh nhân văn hóa Thế giới. Cuộc đời và sự nghiệp của ông ...